BÃO TAN
Đài báo bão! Lệnh của Ủy ban phòng, chống bão lụt là cấp bách bảo vệ đê điều và khẩn trương đưa thuyền của ngư dân về neo đậu ở bến. Đơn vị công binh được giao nhiệm vụ đắp đê biển.

Bắt đầu là những cơn mưa dai dẳng. Rồi, gió mỗi lúc một dữ dội. Phúc đang ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ đê biển kẻo nước mặn tràn vào đất liền. Bảo vệ đê là bảo vệ sự sống còn của quê hương, Phúc điện về báo cho mẹ và bà nội, đêm nay anh phải ở lại trực chiến, bảo mẹ cố gắng đóng kín cửa, ở trong nhà và chăm sóc bà nội. Tuổi già, khi trái gió trở trời bà dễ bị đau nhức.
Gió mỗi lúc một dữ dội, gió như muốn cuốn đi tất cả. Chiếc áo mưa Phúc mặc để che chắn mưa gió như bị cuốn đi. Gió nhằm vào nó, mượn nó để đẩy người.
Sóng biển dâng cao! Nhiều con sóng bạc tung bọt trắng xóa, cao quá đầu Phúc và đồng đội! Biển gầm gào như cơn giận của mãnh thú bị trúng thương. Nhưng cả đơn vị không ai bỏ cuộc. Lại thêm có người chỉ huy trưởng nhiệt huyết như Phúc, nên toàn đơn vị đồng lòng, khẩn trương xúc cát đổ vào bao, đắp đê chắn sóng. Một bức trường thành vững chãi được dựng lên.
Phải bảo vệ đê! Đê còn là cuộc sống bình yên sẽ còn. Phúc nhớ như in hồi anh mới lên ba, lên bốn, bão vào cuốn căn nhà của mẹ con anh, ném vào bờ tre của ông bà ngoại. Trong phút chốc căn nhà nhàu nát, dúm dó, chỏng chơ trong bụi tre, giống như người ta vò tấm giấy cho nhàu nát rồi ném vào cái xó xỉnh. Phúc khóc như mưa. Mẹ xao xác ôm vài bộ đồ còn rơi rớt và tấm ảnh của cha rồi dắt anh chạy qua tá túc nhà ông bà ngoại. Nhà ông bà cũng chẳng hơn nhà Phúc bao nhiêu. Chỉ khác là bốn bên có xây gạch. Nhờ vậy mà bão không dễ dàng nhấc bổng mà ném ra xa như nhà của Phúc.

1.
Căn nhà ấy đong đầy kỷ niệm của hai mẹ con Phúc. Chẳng có ai bước chân tới đó. Chỉ thỉnh thoảng bà ngoại mang sang cho phúc vài trái ổi, cho mẹ một mớ rau hái trong vườn. Ông ngoại thì chẳng bao giờ sang, chẳng quan tâm đến sự sống còn của mẹ con Phúc. Phúc lớn lên trong sự ghẻ lạnh của tất cả mọi người. Đôi lần Phúc nhìn ông bà, lòng thầm khát khao một tổ ấm.
Bão tan. Ông bà ngoại cùng với đoàn thanh niên chặt tre, dựng lại căn nhà trên nền cũ cho mẹ con Phúc. Từ đó mỗi năm vào mùa bão, ông ngoại sang chằng néo nhà cửa cho mẹ con Phúc, rồi về. Lặng lẽ như một cái bóng. Thỉnh thoảng, ông liếc nhìn phúc, lạnh lùng, như để thẩm định cội nguồn của một đứa con hoang. Cái nhìn không hẳn là miệt thị nhưng khiến Phúc lạnh cả sống lưng. Nó làm con tim Phúc rỉ máu. Trước ông, Phúc luôn co người lại như một con chim sợ phải trở thành con mồi cho kẻ mạnh.
Đêm. Mẹ cho Phúc ngủ rồi lặng lẽ ra ngồi trước hiên vắng. Nhiều đêm như thế. Hầu hết các đêm đều thế. Phúc cũng không ngủ được. Nó hiểu niềm chất chứa đau thương trong lòng mẹ qua cái vẻ lạnh lùng của ông bà ngoại; qua sự khinh khi của xóm làng; qua những lời xỏ xiên của đám bạn thường gọi nó là con hoang. Nó không hiểu vì sao trên bàn thờ, cha nó mặc bộ quân phục có gắn ngôi sao trước mũ mà lũ bạn vẫn bảo nó là “đồ con không cha”. Nó uất lắm!
Nó lặng lẽ ra ngồi cạnh mẹ. Bóng hai mẹ con nơi thềm vắng, lạnh lùng như một dấu hỏi đầy khắc khoải trước cuộc chiến.
Phúc luôn thấy bất an. Bóng tối nơi miệt vườn như có hình thù của những con vật khổng lồ, đưa những cánh tay dài ngoằng ra. Có thể những con vật ấy sẽ nắm lấy cổ Phúc, ném ra xa, ngoài con mương nước chảy đục lờ bên thửa ruộng, sau bờ tre đầy gai góc.
Phúc ôm chặt lấy mẹ. Còn mẹ thì giống như một con chim bị trúng thương, suốt ngày gặm nhấm vết thương ấy. Hai con người, hai cái bóng dính chặt vào nhau, ám ảnh nỗi cô đơn như thể xã hội này không có nơi dành cho họ. Phúc chẳng thể làm gì cho mẹ. Nhưng Phúc hiểu mẹ đang cố nén nỗi đau vào trong sâu thẳm tim mình, mẹ cần cho Phúc sự bình yên nhiều nhất có thể.
Bạn bè gọi Phúc là con hoang, là đứa không cha. Mẹ lại bảo cha Phúc đã hi sinh anh dũng. Và trên bàn thờ, hình ảnh người đàn ông mặc quân phục, dưới làn khói hương cứ trìu mến nhìn Phúc. Phúc có niềm tin chắc chắn rằng cha Phúc là một liệt sĩ, một người đáng để tự hào. Nhưng sao ông bà ngoại không xem Phúc là người thân, là ruột thịt?
Những câu hỏi ấy cứ xoáy vào tuổi thơ của Phúc như những lằn roi, băm bổ vào tâm. Tàn nhẫn! Vô cảm!
Phúc thương mẹ nên chẳng hỏi gì thêm.
2.
Một buổi trưa tháng Hai. Đó là một ngày đáng nhớ nhất của đời Phúc. Nắng sớm vàng ươm trước sân nhà. Gió mênh mang đưa mùi thơm của hoa chanh, hoa bưởi bên vườn ngoại về ngập cả căn nhà nhỏ của mẹ con Phúc. Bàn thờ cha Phúc như lồng lộng hơi gió xuân. Từng cuộn khói nhang cứ quấn lấy nhau, chao qua chao lại trên bàn thờ. Phúc nhìn di ảnh người mà mẹ Phúc bảo đó là cha. Thấy Người như đang cười, hiền từ nhìn Phúc. Nó thấy có cái gì đó từa tựa như là hạnh phúc đang đến bên đời mình.
***
Một người đàn ông mặc bộ đồ sĩ quan, đội chiếc mũ cối có gắn ngôi sao vàng năm cánh trên đầu, đến thăm nhà. Đi cùng với người ấy là cô Bí thư Đoàn xã và một người đàn bà tóc đã lấm tấm nhiều sợi bạc. Lần đầu tiên có người đến nhà Phúc. Họ hình như mang đến cho căn nhà chút hơi ấm của mùa xuân. Bên ngoài, những nụ hoa đào vẫn còn nấn ná hơi xuân mà chưa chịu tàn phai.
Mẹ ngập ngừng một chút rồi cúi đầu chào người đàn ông nọ. Và ông ấy tự giới thiệu :“Mình là tổ trưởng tổ lái, là đồng đội của Hạnh. Khi Hạnh hi sinh, trong lễ truy điệu, mình có hứa sẽ về quê anh, thăm mẹ già và người thân của anh. Và mình biết quê chị qua trang nhật ký của Hạnh. Cũng may, tìm chị không khó. Mình được Uỷ ban hỗ trợ và nhất là cô bí thư đoàn xã rất nhiệt tình”. Người đàn ông hướng về cô Bí thư Đoàn đang đứng đối diện.
Còn người đàn bà có mái tóc đã bạc chẳng đợi ai giới thiệu cứ ôm lấy cổ mẹ, vít đầu mẹ xuống hôn lấy hôn để. Nước mắt bà ướt đẫm đôi gò má mẹ. Gò má ửng lên, hồng hào như sắc đào phai. Bà gọi mẹ là con dâu và nấc lên: “Hạnh ơi, mẹ đã tìm được con dâu của mẹ rồi. Con sống khôn thác thiêng đã cho mẹ có thêm người thân thích…”. Rồi bà buông mẹ ra, ôm lấy Phúc đang mở to đôi mắt vì kinh ngạc. Tay nó đang cầm vạt áo của mẹ như sợ ai đó đưa mẹ đi mất. Bà nói trong tiếng xúc động nghẹn ứ: “ Ông trời ơi! Tôi thực sự biết ơn ông khi thằng Hạnh, con trai tôi đã cho tôi một đứa cháu nối dõi…”. Bà kể nhiều mà Phúc chẳng thể nào ghi nhớ hết.
Qua những lời đứt nối của bà, Phúc hiểu đó là người đã sinh ra cha nó. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm lủi thủi, tự đặt ra câu hỏi với đời, Phúc đã có một lời giải về cội nguồn. Đôi mắt cậu bé ánh lên một niềm xúc động khôn tả.
Bà nội nó, ông thủ trưởng của mẹ nó, cô bí thư xã đoàn cùng mẹ nó ra Ủy ban xã làm khai sinh lại cho nó. Trong tờ giấy khai sinh hiện lên dòng chữ, con ông: Nguyễn Xuân Hạnh, liệt sỹ.
Ông Chủ tịch xã đã ôm nó vào lòng, rồi hai tay đặt lên đôi vai nhỏ xíu của nó lay nhẹ: “Chúc mừng cháu có cha là một liệt sĩ quả cảm”! Nó chưa hiểu gì nhiều nhưng trong thâm tâm như có niềm hạnh phúc đang lên tiếng. Rạo rực!
Nó ôm lấy tờ giấy khai sinh, nước mắt chảy dài. Từ nay, chẳng ai có quyền khinh thường nó là con hoang nữa. Cha nó là liệt sỹ. Cái chết của cha thật vinh quang, thật đáng tự hào.
.jpg)
3.
Năm 1972, trên tuyến đường Trường sơn có một tổ thanh niên xung phong rà phá mìn gồm ba cô gái. Cái tuổi hai mươi tràn trề sức trẻ và lòng dũng cảm. Họ được giao nhiệm vụ phá mìn, thông tuyến để những chiếc xe chở hàng ra tiền tuyến được an toàn.
Nhiều lần họ bị bom tọa độ, nhiều lần bị thương, bị sức ép của những quả bom từ trường. Nhưng cái ác liệt của bom đạn không hủy diệt được sức trẻ của những cô con gái giàu lý tưởng.
Lần ấy, vào mùa khô, khi tổ ba người đang thông tuyến cho đoàn xe vào chiến trường thì họ bị trúng bom. Quả bom rơi cách chỗ họ khoảng vài chục mét trong khi họ đang cài mìn cho một quả bom nổ chậm ngày hôm qua. Sức ép của đất đá làm cho dây kíp bùng cháy rồi quả bom phát nổ không đợi giờ hẹn. Cả khu rừng rung chuyển bới sức dội của bom, của đất đá.
***
Đoàn xe vào chiến trường dừng lại để tránh bom. Tổ lái có năm người. Mỗi người tản ra một hướng theo lệnh của của tổ trưởng tổ lái. Một chiến sĩ lái xe đang lom khom ép mình xuống hố thì bỗng đâu có một người con gái bị tạt văng vào miệng hố, nằm ngay trên đầu anh. Giật mình, hốt hoảng… Rồi, anh nhận ra người ấy là một trong ba bông hồng thép, từng nhiều lần anh đã gặp họ thông tuyến và gửi cho các anh những nụ cười ấm áp tình người. Anh nhoài người lên. Mặt cô gái lấm lem bụi đất, mắt nhắm nghiền. Anh đưa ngón tay lên mũi, thấy cô gái vẫn còn thở nhưng hơi thở rất yếu.
***
Tiếng máy bay xa dần. Anh chạy về phía xe, lấy cái bi đông nước, cái khăn mặt và một ít bông tẩm cồn… vệ sinh cho cô gái.
Cô gái dần tỉnh. Không có vết thương nào quá lớn, chủ yếu bị trầy xước và va đập, nhưng tỉnh được một lúc lại lịm đi. Trong mê sảng, cô gọi tên đồng đội.
Rừng im ắng như thuở hồng hoang, chẳng thấy tín hiệu gì cho biết đồng đội cô còn sống. Cả năm người tìm kiếm cả mấy tiếng đồng hồ mà chẳng thấy gì. Họ đành phải lên đường!
Tổ trưởng tổ lái ân cần: “Đồng chí Hạnh có trách nhiệm quay trở lại, đưa thương binh về trạm xá. Hàng trên xe chất hết lên bốn chiếc xe để anh em chúng tôi chở về tiền tiêu đủ số lượng!”. Cả nhóm đồng thanh “Rõ” và bắt tay vào công việc. Thoáng chốc đoàn xe đã nổ máy. Bụi tung mù mịt!
Người chiến sĩ lái xe dìu cô gái lên ca bin. Anh lấy chiếc ba lô của mình làm gối cho cô gái, đặt cô nằm chênh chếch bên khung cửa kính. Lần đầu tiên anh nhận ra cái dịu dàng ngay giữa lằn ranh sinh tử. Cô gái cứ nằm yên, lâu lâu khẽ trở mình, khẽ rên một tiếng giống như thiên thần bị giấu mất đôi cánh nhỏ không thể bay lên.
Chặng đường quay trở lại bị bom đào xới. Có chỗ chỉ còn là hố bom sâu hoắm. Anh tìm cách băng rừng. Nhưng không hề dễ. Trong những lùm cây mấp mô ven đường, biết đâu còn những quả bom nổ chậm. Nhiệm vụ của anh là bảo toàn cho xe, cho cô gái anh dũng bên cạnh mình và cho cả mình nữa.
Anh nghe rất rõ tiếng thở của đại ngàn, khắc khoải như tiếng của một sinh vật mang trên mình đầy thương tích.
Đêm buông xuống. Rừng già rười rượi ánh trăng. Vài con dế lạc nhau đang ri rích tìm bạn. Hương hoa dẻ ở đâu đó cứ lan vào, quấy loãng không gian mịt mùng. Anh dừng tay lái, ngả đầu vào ghế sau, tìm mấy giây thư giãn cho tan bớt sức nóng của một tâm hồn vừa trải qua những biến cố dữ dội.
Cứ cái đà này, con đường trở về còn nhiều vất vả, gian nan.
Anh chợt thấy đói. Lấy lương khô trong cốp ra, anh dằm nhuyễn, cho thêm vài giọt nước cho mềm rồi bón cho cô gái. Dường như cô gái bị vướng ở cổ, không thể nuốt nên mỗi lần bón lương khô, anh lại bón một muỗng nước. Anh thở phào khi cô gái đã nuốt được non nửa cái lương khô của lính.
Anh mở cửa ca bin cho gió tràn vào. Anh thấy mình lọt thỏm giữa mênh mông. Cô gái bên cạnh anh vẫn còn nửa mê nửa tỉnh như không hề biết sự hiện hữu của một người khác giới bên cạnh. Thỉnh thoảng cô cất tiếng hô lớn, anh không nghe rõ đó là tiếng gì, cứ ú ớ trong cổ. Nhưng cái âm vực vang ra như là mệnh lệnh.
Ngày thứ ba, cô gái tỉnh hẳn. Tuy nhiên cô vẫn còn rất yếu. Cô yêu cầu anh dừng lại bên một con suối để tắm. Anh đưa bộ đồ mới nhất cho cô rồi nằm trên lớp lá khô chờ đợi.
Cô gái bước lên bờ, trong ngần như chưa từng trải qua đại nạn. Anh bảo cô ngồi đấy và bước xuống thả mình giữa dòng suối mát lành.
Ánh trời chiều thong dong xuống núi, đỏ ối một miền nhớ xa xôi…
***
Họ ngồi trên lớp lá khô. hướng mắt về phương Bắc. Trên đầu họ, ngôi sao hôm đã xuất hiện, vằng vặc như khẳng định sự vĩnh cửu của một hành tinh rất xa trái đất.
Anh mở đầu câu chuyện bằng một câu nói đầy cởi mở. “Ước gì chúng ta được sống ở một nơi không có chiến tranh”. Cô gái nhìn anh, hiểu rất rõ mấy lời ngắn ngủi ấy.
Họ cho nhau biết đôi điều về quê hương. Chàng trai kể, giọng trầm, ấm, nghe cứ ngùi ngùi, thảng thốt: “Anh là con một. Quê anh ở miền Trung, bên dòng sông Lam êm đềm chảy ra cửa Hội. Khi anh đi lính, mẹ khóc nhiều. Hôm trước cô em họ viết thư cho anh, bảo rằng: “Hễ ai nhắc đến tên anh là mẹ khóc”.
Nghe anh kể, lại nghĩ về hai đồng đội mất tích, cô gái xúc động mạnh. Cô đặt bàn tay nhỏ nhắn vào bàn tay ấm nóng của anh. Rồi, từ từ lịm đi!
Anh bế cô về xe, đặt cô nằm trên ca bin, rồi lấy bạt trải phía sau thùng xe, anh nằm ngắm trăng lên và nghe tiếng con tắc kè thả vào đêm cái giọng khê nồng. Đôi lúc anh hốt hoảng trước tiếng hú của một động vật săn mồi đang gửi thông điệp cho đồng loại của nó. Rừng khuya thăm thẳm sương lạnh!
Nửa đêm thì cô gái tỉnh giấc, cô hốt hoảng gọi anh. Anh đưa cô gái ra sau thùng xe, cô khẽ khàng ghé đầu vào vai anh như tựa vào một niềm biết ơn sâu sắc và kín đáo.
Sương khuya mỗi lúc một dày. Dưới trăng, sương bàng bạc như ở một cõi khác. Anh nhìn gương mặt cô gái, đẹp như một ảo ảnh. Không hiểu sao trong anh dậy lên một tình yêu pha lẫn niềm cảm phục.
Anh cầm tay cô gái, nâng lên, đặt vào đó một nụ hôn rồi nhỏ nhẹ: “ Em còn mệt nhiều không?”. Cô gái khẽ gật đầu rồi nghiêng vào vai anh, đầy tin tưởng.
Đêm ấy, đại ngàn nghe tiếng thở của đôi lứa!
Anh đưa cô gái về trạm điều dưỡng, giao người cho đơn vị rồi tiếp tục lên đường. Anh hứa khi trở ra sẽ hái cho cô một giò phong lan đẹp nhất.

4.
Chuyến hàng của tổ xe hôm ấy chủ yếu là quân nhu. Trước giờ xuất phát, tổ trưởng tổ lái cùng với anh em trao đổi về kế hoạch chuyến đi. Hạnh lên tiếng: “ Hình như bọn chúng đã xác định mục tiêu là con đường huyết mạch của chúng ta. Thời gian gần đây nó quần dữ quá. Có thể phải chia ra, mỗi chiếc xe xuất phát cách nhau chừng một tiếng đồng hồ. Như vậy có gặp hiểm nguy thì không cháy hàng cả nhóm”.
Ý kiến của Hạnh được tổ trưởng tổ lái và anh em đồng ý. Hạnh xin được xuất phát trước để còn thời gian thì vào rừng hái giò phong lan. Nhiều lần lái xe qua, anh và đồng đội tấm tắc khen mấy cành hoa đủ màu đu mình trên những cây gỗ lớn.
***
Hạnh xuất phát trước mọi người. Lòng anh ngập tràn hạnh phúc khi nghĩ đến lúc anh sẽ quay trở ra với một giò phong lan tím, rưng rức một thứ hương thơm của đại ngàn để trao cho cô gái. Anh hình dung đến nụ cười và đôi mắt biếc của người đã cho anh những khoảnh khắc vừa đau thương vừa ngọt ngào trong một chuyến vượt trường sơn nhớ đời.
***
Một loạt bom dội xuống. Con đường biến mất, rồi xe bốc cháy dữ dội. Anh mở cửa ca bin, tính bò xuống phía con suối bên cạnh. Nhưng anh đau quá. Toàn thân bị mảnh bom ghim. Máu ướt đẫm. Bò được một quãng, anh nằm lại, rồi thiếp đi. Trong mê man, anh thấy mình bay vào không gian, một tay cầm lá cờ đỏ sao vàng vẫn thường cắm trước ca bin. Một tay cầm giò phong lan tím. Tiếng cười lẫn trong tiếng chim rừng ríu ran.
Cô gái chờ mãi mà chẳng thấy anh quay trở lại. Hỏi ra mới biết anh đã hi sinh. Anh bị bom toạ độ, xác anh cũng hoà vào đất, vào đá. Còn chiếc xe chở hàng cũng cháy rụi thành tro bụi.
5.
Mấy tháng sau, có hai đồng đội nữ đưa cô về trả cho Ủy ban xã. Cha mẹ cô từ mặt cô. Bà con làng xóm thì xem cô như một nỗi ô nhục, Nhưng cô thì khác, im lặng chịu đựng để dưỡng nuôi kết quả của một tình yêu thiêng liêng đang được hoài thai.
Cha mẹ cô chặt tre, đan lá cất cho cô căn nhà nằm ở cuối góc vườn. Cô lặng thầm chịu đựng giống như người đãi vàng chấp nhận những rủi ro để được một thỏi vàng lấp lánh với giấc mơ đổi đời mãnh liệt. Rồi cô gái ấy đã hạ sinh vào một đêm mưa gió. Đó là một cậu bé thật tuấn tú. Người mẹ đặt tên cho con là Phúc.
Thằng Phúc sống với mẹ lủi thủi. Những đêm trời mưa to, nghe tiếng ếch kêu ngoài rặng tre, nơi có con mương, vọng vào, nó cứ ôm chặt lấy mẹ và hỏi đủ thứ trên đời. Hay những lúc bạn bè chọc tức nó, nó muốn đáp trả, nhưng rồi nó nghĩ một mình nó chẳng thể làm gì một lũ bạn ngang trời dọc đất. Nó đành câm nín, chịu trận, giống như một cây con mới lớn bị những mãnh thú quần cho gãy nát.
Từ ngày bà nội xin phép ông bà ngoại đón mẹ con nó về, nó mới được sống đủ đầy trong tình yêu thương của nội ngoại. Đôi khi thắp hương cho cha, nó hứa rằng: Con sẽ anh dũng, ngoan cường để tiếp bước cha mẹ.
6.
Phúc gia nhập quân đội năm mười tám tuổi. Anh thừa hưởng cái vẻ đẹp ngoan cường của bố và phẩm chất kiên trung của mẹ. Mỗi bước anh đi trên con đường quân ngũ đều có tình yêu thiêng liêng của hai người chiến sĩ dạn dày trên con đường trường sơn nâng đỡ, dắt dìu.
Giờ anh đang là đại uý, đại đội trưởng của đơn vị công binh. Mỗi lần giỗ cha, anh đều tranh thủ về, đôi khi chỉ được một buổi rồi đi. Anh về để thắp hương trước bàn thờ cha. Và cũng còn để an ủi bà nội và mẹ. Anh yêu mẹ anh, một người phụ nữ thuỷ chung, ngoan cường. Mẹ đã cho bố con anh hiểu ý nghĩa thiêng liêng của lẽ tồn sinh trong máu lửa của cuộc chiến. Và anh luôn hứa với cha rằng: “Con sẽ sống xứng đáng với truyền thống của gia đình”.
Bão tan! Cây cối đổ ngổn ngang! Đường về nhà không dễ! Anh điện cho mẹ báo tin vợ sắp sinh đứa con thứ hai. Nó là con trai.
Bà nội bảo mẹ anh ra siêu thị mua một ít trái cây về đặt lên bàn thờ thắp hương báo cáo với tổ tiên. Hai người đàn bà cùng xúc động rơi nước mắt.
Khấn nguyện xong, bà nội cười rạng rỡ: “Nó hệt như cha nó, cứ mải mê theo đuổi những con đường xa tít ở ngoài kia”.
Truyện ngắn của LÊ NGUYỄN
Bình luận, góp ý (0)
Bạn cần đăng nhập để bình luận