Thời sự - Chính trị

A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

“MẶT ĐẤT VÀ BẦU TRỜI” - Hồi ký của Trung tướng Lê Văn Tri trong các chiến dịch lịch sử

Trung tướng Lê Văn Tri sinh ngày 13 tháng 9 năm 1921 tại làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình (nay là tỉnh Quảng Trị). Ông là người chỉ huy Trung đoàn pháo cao xạ đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, và cũng là người chỉ huy lực lượng Phòng không-Không quân bắn tan xác pháo đài bay B-52 trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, trên bầu trời Hà Nội năm 1972.  

Bộ đội Phòng không luyện tập bắn máy bay B52. (Ảnh minh họa)

 

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Nam Việt Nam nhanh chóng rơi vào tay đế quốc Mỹ. Nhiệm vụ cấp thiết của Đảng ta là phải xây dựng Quân đội Nhân dân cách mạng từng bước tiến lên chính quy, hiện đại, tiến hành đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Tháng 8 năm 1956, đồng chí Lê Văn Tri học ở Học viện Pháo binh Lê-nin-grát (Liên Xô). Sau bốn năm rưỡi tiếp cận với nền quốc phòng Liên bang Xô viết, ông trở về Việt Nam trên cương vị Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Pháo binh. Ông đã đề đạt lên Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng kết hợp hai lực lượng phòng không bảo vệ yếu địa Hà Nội, Hải Phòng với lực lượng cơ động ngăn chặn địch từ xa và không quân tham gia chiến đấu trong lực lượng quân, binh chủng. Ý kiến của ông được Tổng Tham mưu trưởng chấp thuận và tiến hành.

Quân chủng Phòng không-Không quân từ đây viết nên trang sử mới. Chỉ riêng tháng 6 năm 1964 ta đã bắn rơi sáu máy bay T28 của địch trên biên giới Lào-Việt, trong đó có hai chiếc rơi tại chỗ. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, Mỹ huy động 64 chiếc máy bay ở hai hàng không mẫu hạm Constellation và Ticonderoga đánh vào tàu Hải quân, kho xăng dầu của ta từ Quảng Bình ra đến Quảng Ninh. Lực lượng pháo cao xạ của Quân chủng cùng hải quân và các địa phương đã ngoan cường đánh trả, bắn rơi 8 máy bay, bắt sống tên giặc lái đầu tiên (Trung úy An - va- rét).

Đầu năm 1965, Lê Văn Tri lên nhận nhiệm vụ Cục phó Cục Tác chiến, theo dõi tình hình miền Bắc. Ông trực tiếp làm việc với phòng A (miền Bắc). Cục Tác chiến lên lịch trực ban tác chiến suốt ngày đêm, báo cáo lên Bộ Tổng Tham mưu duyệt. Chưa đầy một năm mà đế quốc Mỹ đã bị rơi hơn 400 máy bay trên bầu trời miền Bắc.

Với lực lượng không quân, hai ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, Trung đoàn 923 (máy bay MiG- 17) đánh trận đầu tiên, đã tiêu diệt bốn máy bay hiện đại của Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng. Bác Hồ đã viết thư khen ngợi bộ đội không quân đánh thắng trận đầu. Đặc biệt Trung đoàn 921 (máy bay MiG -21) mới thành lập cũng không thua kém gì các loại máy bay hiện đại của Mỹ. Đây là loại máy bay tiêm kích đánh chặn, dám ngang ngửa thọc sâu vào đội hình máy bay địch, tiêu diệt mục tiêu rồi nhanh chóng thoát.

Sáng 29 tháng 4 năm 1966, Lê Văn Tri lần đầu tiên thay mặt Cục Tác chiến trực tiếp báo cáo tình hình chiến sự tháng 4 với Bác Hồ, nên ông rất lo.

Bác nói: “Trải bản đồ xuống nền nhà rồi hai bác cháu ta ngồi chò hỏ(1) mà làm việc”. Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ mời Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua nghe luôn để đỡ báo cáo lại lần hai. Cả ba người cùng ngồi xuống sàn nhà, lúc đó Lê Văn Tri mới thấy nhẹ người. Cũng trong ngày hôm ấy Cục Tác chiến báo về lực lượng phòng không và máy bay MiG-21 bắn rơi 4 máy bay giặc Mỹ, trong đó Trung đoàn 210 bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.000 trên miền Bắc. Bác rất vui.

Từ năm 1966 đến năm 1971, máy bay MiG-21 đã bay vào tận khu vực Khe Sanh, đường 559, khu vực chiến đấu Tây Nguyên để tìm cách đánh B-52. Đêm 20 tháng 11 năm 1971, phi công Vũ Đình Rạng đã vượt qua lớp hàng rào máy bay F4, phóng hai quả tên lửa K-13 vào hai chiếc B-52 rồi quay về sân bay Anh Sơn an toàn. Sau này phi công David Robert Volker của Mỹ cho biết, chiếc máy bay B-52 do ông ta lái thùng dầu phụ cánh bên trái bị thủng, dầu mất hết. Ông khẳng định đây là lần đầu tiên trên thế giới, B-52 của Hoa Kỳ bị phi công MiG-21 tiếp cận được và bắn trọng thương, không thể sử dụng được nữa. Hàng loạt sĩ quan chỉ huy liên quan bị cách chức. Nước Mỹ im lặng để bảo vệ danh dự và giữ bí mật quốc gia. Trong bốn tháng máy bay B-52 không hoạt động, tạo điều kiện cho đường 559 vận chuyển khí tài, đạn dược vào chiến trường miền Nam. Từ kinh nghiệm này, đồng chí Lê Văn Tri yêu cầu các phi công phải phóng liền 2 quả tên lửa K-13 vào cùng một B-52 để tiêu diệt triệt để.

Đối với tên lửa phòng không Sam-2, ngay từ năm 1964, Liên Xô đã viện trợ cho ta. Thiếu tướng Xi-mít đã qua Việt Nam cùng Tư lệnh phó Quân chủng Đỗ Đức Kiên nghiên cứu địa hình bố trí tên lửa bảo vệ Hà Nội. Ta xây dựng bốn trận địa hỏa lực mạnh và một bãi lắp ráp đạn tên lửa. Ngày 19 tháng 7 năm 1965, Bác Hồ đến thăm Quân chủng Phòng không-Không quân. Đại tá Phùng Thế Tài và Đại tá Đặng Tính đưa Bác đến thăm các trung đoàn pháo phòng không tham gia chiến đấu với Trung đoàn tên lửa 236. Bác khẳng định: “Ta nhất định thắng, Mỹ nhất định thua. Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền, dù chúng có B57, B52 hay “Bê” gì đi nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ, chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”.

Ngày 24 tháng 7 năm 1965, hai tiểu đoàn tên lửa 63 và 64 phóng 4 quả tên lửa vào một tốp máy bay RF4 ở độ cao 7000 mét, bắn rơi chiếc máy bay thứ 400 trên miền Bắc. Ngày này trở thành ngày truyền thống của bộ đội tên lửa.

Tháng 8 năm 1967, đồng chí Lê Văn Tri về lại Quân chủng Phòng không-Không quân với cương vị Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Muốn bắt cọp phải vào tận hang”, Trung đoàn tên lửa 238 được lệnh vào Vĩnh Linh, Quân khu 4 để tìm cách đánh B-52. Tiểu đoàn 84 được bố trí ở khu tây (Nông trường cao su Quyết Thắng). Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Tiểu đoàn đã hạ gục chiếc máy bay B-52 đầu tiên. B-52 là loại máy bay có hệ thống khí tài tác chiến điện tử cực kỳ tiên tiến, khiến cho hệ thống ra-đa của ta bị gây nhiễu mạnh, rất khó phát hiện, bắt bám và điều khiển tên lửa. 

Phân đội Pháo phòng không trực sẵn sàng chiến đấu. (Ảnh minh họa)

 

Trong ba tháng cuối năm địch tổ chức liên tiếp ba đợt đánh vào Hà Nội, Hải Phòng. Chúng tăng cường sử dụng nhiễu điện tử trong và ngoài đội hình cùng nhiễu rãnh đạn tên lửa. Tên lửa ta vừa bắn lên là lại rơi xuống đất. Bộ Tư lệnh Quân chủng phải tăng cường hoạt động của không quân và pháo cao xạ bù đắp lại. Trong năm 1967 có 1.067 máy bay Mỹ bị bắn rơi. Ngày 31 tháng 3 năm 1968, Giôn-xơn buộc phải ra lệnh ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ hai nữa.

Tháng 10 năm 1969, Phó Tư lệnh Lê Văn Tri được đề bạt làm Tư lệnh Quân chủng Phòng không- Không quân. Lúc này cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam đã làm cho chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn đang có nguy cơ bị phá sản. Ngày 6 tháng 4 năm 1972, Ních-xơn quyết định huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc lần thứ hai. Hậu phương miền Bắc vẫn đứng vững vàng tiếp sức cho chiến trường miền Nam đánh bại âm mưu “thay đổi màu da trên xác chết” của Ních-xơn.

Ngày 11 tháng 9, cố vấn Kissinger phải chấp nhận phương án ngừng bắn, rút quân Mỹ và chính quyền Thiệu vẫn sẽ ở lại cho tới khi tổ chức Tổng tuyển cử ở miền Nam. Nhưng đến ngày 31 tháng 10 năm 1972, Mỹ lật lọng không chịu ký hiệp định “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” như đã thỏa thuận. Chúng đánh một canh bạc cuối cùng “Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II” tập kích những mục tiêu quan trọng nhất của Hà Nội, Hải Phòng. Chúng huy động một lực lượng không quân chưa từng có, 193 máy bay chiến lược B-52 (gần 50% số B-52 của Mỹ) và gần 1.000 máy bay chiến thuật từ sáu chiếc hàng không mẫu hạm và hai sân bay Andersen ở Guam, Utapao ở Thái Lan tham chiến. Ngoài ra còn có tàu chiến, các phương tiện điện tử tinh vi để làm nhiễu ra-đa và đặc biệt nhiễu đài điều khiển tên lửa của ta.

Về phía ta, trong điều kiện phải giữ bí mật tuyệt đối gây bất ngờ cho không quân Mỹ, các chuyên gia Liên Xô và kỹ sư, kỹ thuật viên tên lửa Việt Nam đã lặng lẽ tổ chức nhiều đợt cải tiến khí tài chống nhiễu điện tử. Đặc biệt là tăng số mảnh văng của tên lửa để tăng hiệu quả sát thương. Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri đã ra lệnh cho toàn thể bộ đội tên lửa học tập tài liệu “Cách đánh B-52 của tên lửa”. Một điều đáng mừng là ngày 22 tháng 11 năm 1972, Trung đoàn 263 ở Nghệ An đã áp dụng, bắn rơi một máy bay B-52 trên biên giới Thái-Lào. Việc này càng minh chứng tài liệu “Cách đánh B-52 của tên lửa” là đúng. Khi dùng B-52 đánh phá, không quân Mỹ thường dùng đội hình F-4 thả nhiễu tiêu cực chống ra-đa và tên lửa bắn lên, bởi vậy ta phải cải tiến để khi tên lửa tiếp cận mục tiêu B-52 mới phát nổ.

Ngày 11 tháng 12 năm 1972 Bộ Tổng Tham mưu đã thông báo cho các đơn vị về âm mưu Mỹ chuẩn bị đem pháo đài bay B-52 ra đánh Thủ đô Hà Nội. Ngày 13 tháng 12 năm 1972, Mỹ thay đổi chiến lược từ đàm phán sang sử dụng sức mạnh quân sự phát động chiến dịch ném bom quy mô lớn, hy vọng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận những điều khoản mà Mỹ đưa ra. Hội nghị Pa-ri bế tắc, Kít-xinh-giơ bay về Oa-sinh-tơ bàn bạc với tướng Hây-gơ rồi cùng đề nghị Ních-xơn cho B-52 ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam.

Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri đã cùng Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Hoàng Phương trao đổi, bàn bạc cách tổ chức thực hiện chỉ thị cấp trên giao phó, chuẩn bị đương đầu với con át chủ bài B-52 của Mỹ. Khó khăn nhất của ta là các tổ hợp tên lửa phòng không bị máy bay B-52 gây nhiễu điện tử nặng nề. Ba năm trước, lực lượng biệt kích Israel đánh cắp được một ra-đa hiện đại nhất thời đó mà Ai Cập vừa nhận ở Liên Xô. Mỹ đã tìm ra phương án gây nhiễu để đối phó với các tổ hợp tên lửa Sam-2 do Liên Xô chế tạo. Bọn phi công B-52 cho rằng ra ném bom Hà Nội lần này như một cuộc dạo chơi. Chúng lập kế hoạch bay theo đội hình thẳng hàng và các đường bay định sẵn. Chúng chỉ cần giữ cho máy bay thăng bằng rồi ấn nút cắt bom. Lần này, Ních-xơn chắc mẫm sẽ đưa miền Bắc trở về thời kỳ “đồ đá”.

Lúc 16 giờ 30 ngày 18 tháng 12, ta nhận được thông báo của Bộ Tổng Tham mưu: Từ sau 19 giờ sẽ có một hoạt động lớn của máy bay B-52. Lúc 19 giờ Tư lệnh Lê Văn Tri cùng các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân đều có mặt tại Sở chỉ huy. Đồng chí Nguyễn Quang Bích Phó Tư lệnh phụ trách phòng không ra lệnh cho không quân cất cánh nhưng không gặp địch.

Lúc 20 giờ 13 phút, Tiểu đoàn 59 của Trung đoàn tên lửa 261 đã bắn rơi tại chỗ chiếc B-52 đầu tiên. Mừng quá, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đều hỏi đi hỏi lại có đúng là B-52 rơi không? Trong đêm đó bộ đội tên lửa còn hạ thêm hai B-52 nữa. Sáng hôm sau, đồng chí Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng và Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri đáp trực thăng tới chỗ chiếc B-52 rơi. Chiếc pháo đài bay B-52 to lớn bị vỡ tan tành, gãy cánh, động cơ bị cháy rụi.

Qua 12 ngày đêm đọ sức với không lực Hoa Kỳ trên bầu trời Hà Nội, ta đã bắn tan xác 81 máy bay trong đó có 34 pháo đài bay B-52, trên tổng số 193 chiếc được huy động.

Cũng xin nói thêm một chi tiết, để khắc chế sự gây nhiễu của các khí tài tác chiến điện tử B-52, cán bộ kỹ thuật Quân chủng Phòng không-Không quân đã nghiên cứu cải tiến và sử dụng loại ra-đa K8-60 để phát sóng, phát hiện, bắt bám B-52. Loại khí tài “cổ lỗ sĩ” này có 2 băng sóng. Băng sóng 2, hoạt động ở dải sóng 3 cm đã vạch được nhiễu, phát hiện và chỉ thị chính xác mục tiêu B-52. Địch không kịp có biện pháp gây nhiễu cho băng sóng 2. Từ tháng 6 năm 1972, Tư lệnh Lê Văn Tri đã chỉ thị nhân lên 6 bộ khí tài cải tiến ra-đa K8-60 cho khu vực Hà Nội để chuẩn bị đánh B-52. Tuy nhiên đến tháng 9 năm 1972 mọi nỗ lực của nhà máy V-119 cũng chỉ sản xuất được một bộ, cộng với bộ cải tiến do Phòng nghiên cứu kỹ thuật của Phòng không-Không quân đã làm trước đó là hai bộ. Hai bộ này trang bị cho Tiểu đoàn 57 thuộc Trung đoàn 261 và Tiểu đoàn 79 thuộc Trung đoàn 257 lập công xuất sắc. Tiểu đoàn 79 bắn hai quả đạn diệt 2 máy bay B-52 vào đêm 20 tháng 12 năm 1972.

Trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” bộ đội không quân cũng bắn rơi hai máy bay B-52. Đêm 27 tháng 12, phi công Phạm Tuân đã lái máy bay MiG-21 hạ một máy bay B-52 trên bầu trời phía tây Hà Nội. Đêm sau, phi công Vũ Xuân Thiều hạ tiếp một chiếc B-52 nữa trên bầu trời Sơn La trước lúc hy sinh.

Bộ đội pháo cao xạ 100mm cũng đã bắn rơi ba siêu pháo đài bay B-52 giặc Mỹ. Tư lệnh Lê Văn Tri nuối tiếc, nếu trang bị kịp thời ra-đa K8-60 cho pháo cao xạ 100mm thì máy bay B-52 còn rơi nhiều hơn nữa. Đặc biệt là có tên lửa Sam-3 tham chiến thì chắc chắn Mỹ sẽ ngừng ném bom sớm hơn. Tên lửa Sam-3 có hiệu quả tiêu diệt máy bay B-52 cao, khả năng cơ động nhanh và kháng nhiễu điện tử mạnh hơn nhiều so với Sam-2. Lúc đó hai trung đoàn 277 và 276 mang khí tài, bệ phóng tên lửa Sam-3 về nước nhưng đạn tên lửa còn ở ga Bằng Tường bên kia biên giới. Khi Tiểu đoàn 169 đạn tên lửa Sam-3 lên bệ phóng sẵn sàng tham chiến thì cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 của Mỹ vào Hà Nội kết thúc. Nếu kéo dài thêm nữa chắc chắn Mỹ sẽ cạn kiệt B-52. 

Đúng như nhận định từ trước của Bác Hồ: “Ở Việt Nam, Mỹ nhất định sẽ thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”. Trận “Điện Biên Phủ trên không” đã chấm dứt niềm hy vọng mong manh của đế quốc Mỹ hòng đè bẹp ý chí của Nhân dân Việt Nam. Sự gắng sức của Mỹ đến đây là kết thúc. Tổng thống Mỹ Ních-xơn phải cầu xin Hà Nội nối lại các cuộc đàm phán hòa bình, đơn phương chấm dứt ném bom vô điều kiện. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pa-ri về Việt Nam được chính thức ký kết.

Ngày 29 tháng 1 năm 1973, đồng chí Lê Đức Thọ từ Pa-ri trở về Hà Nội đã phát biểu tại sân bay Gia Lâm: “Các đồng chí Phòng không-Không quân đánh giỏi quá! Mỹ muốn ép ta nhưng các đồng chí ép lại, chúng phải chấp nhận những điều kiện của ta. Phái đoàn Mỹ lần này vào hội nghị với tâm trạng buồn bã, trầm lặng của kẻ chiến bại”.

Trận “Điện Biên Phủ trên không” là đòn đánh bồi có tính quyết định đuổi quân Mỹ về nước, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Và từ năm 1973 đến 1975, bộ đội Phòng không- Không quân đã nâng cấp lên hàng sư đoàn, tham gia các chiến dịch đánh tan quân ngụy Sài Gòn. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 4 năm 1975, Tư lệnh Lê Văn Tri nhận được lệnh sử dụng máy bay thu được của địch để đánh địch. Ngày 28 tháng 4, ông đã giao nhiệm vụ cho Phi đội Quyết thắng ném bom vào chỗ để máy bay trực ban chiến đấu của chúng tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phi công Nguyễn Thành Trung thay mặt anh em đứng ra hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Phi  đội Quyết thắng hoàn thành một cách xuất sắc. Trên 50 chiếc máy bay địch bị phá hủy, quân tướng chúng bị hoảng loạn. Tiếng bom nổ vang dội cả Sài Gòn, cáo chung cho chế độ tay sai của Mỹ. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Năm 1989, Trung tướng Lê Văn Tri nghỉ hưu. Nhìn lại cuộc đời trận mạc, ông đều tham gia tất cả các chiến dịch lịch sử. Nhớ lại trận “Điện Biên Phủ trên không” và mùa xuân đại thắng, ông đã viết: “…Nhớ mãi không quên ngày tháng Chạp/ Hà Nội trên không rực rỡ hoa/ Một tiếng súng nổ từ xa xa/ Vang lên tiếng hát bản hùng ca/ Nhớ mãi không quên ngày đại thắng/ Trọn vẹn muôn đời Tổ quốc ta…”.  

HOÀNG MINH ĐỨC


Các tin khác

Tin đọc nhiều