Thứ sáu, 29/03/2024 - 07:50
Quân khu 4: Đảm bảo tốt chế độ, chính sách thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ Chi bộ Báo Quân khu 4 lãnh đạo hoàn thành tốt các kết luận, nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và chỉ thị về xây dựng “chi bộ 4 tốt”, “đảng bộ cơ sở 4 tốt” Bộ Tư lệnh Quân khu 4: Gặp mặt cán bộ, học viên Lớp bồi dưỡng kiến thức QP&AN đối tượng 2. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIV của Đảng Bộ Tư lệnh Quân khu 4 thăm, động viên học viên Lớp bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng và An ninh đối tượng 2 Giúp chiến sỹ mới tự tin trong “Ngôi nhà mới”. Trung tướng Hà Thọ Bình, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu chăm lo chu đáo cho chiến sĩ mới Trung tướng Hà Thọ Bình, Tư lệnh Quân khu 4 thăm, động viên Chiến sĩ mới. Tư lệnh Quân khu thăm, kiểm tra Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 Trung tướng Trần Võ Dũng, Chính ủy Quân khu chúc mừng Bệnh viện Quân y 4 nhân Ngày Thầy thuốc Việt Nam Trung tướng Hà Thọ Bình, Tư lệnh Quân khu chúc mừng ngày Thầy thuốc Việt Nam tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Trung tướng Hà Thọ Bình, Tư lệnh Quân khu 4 dự, chỉ đạo Lễ giao, nhân quân tại thành phố Huế
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

60 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG NGÀNH HẬU CẦN QUÂN KHU 4 (16/11/1961- 16/11/2021)

Ngày 16/11/1961 Ngành Hậu cần Quân khu 4 được thành lập và được lấy làm Ngày truyền thống. Trải qua, 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sỹ, người lao động của ngành Hậu cần Quân khu 4 đã không quản hy sinh gian khổ, tận tâm, tận lực cống hiến trí tuệ, mồ hôi công sức và cả máu xương xây đắp nên truyền thống “Cần kiệm, sáng tạo, tự lực tự cường, biết dựa vào dân, đoàn kết, quyết thắng”. Báo Quân khu 4 trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và các đồng chí quá trình thành lập, chiến đấu và trưởng thành của Ngành Hậu cần Quân khu 4 trong 60 năm qua.

Trung tướng Trần Võ Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu; Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn, Phó Tư lệnh Quân khu tham quan trưng bày tại Đại hội Đảng bộ Cục Hậu cần nhiệm kỳ 2020 - 2025.

Phần thứ nhất

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA NGÀNH HẬU CẦN QUÂN KHU 4

          I. NGÀNH HẬU CẦN CHIẾN KHU, LIÊN KHU 4 TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 – 1954)

          1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1951

          Ngày 15 tháng 10 năm 1945, để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy, hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang, kịp thời đối phó với tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập các Chiến khu cách mạng, trong đó có Chiến khu 4. Cơ quan Chiến khu có 3 phòng: Tham mưu, Chính trị, Cung cấp. Phòng Cung cấp do đồng chí Mười Uyển làm trưởng phòng; đến năm 1946 Phòng Cung cấp Chiến khu được cấp trên tăng cường thêm cán bộ, đồng chí Nguyễn Sĩ Oánh được Khu uỷ giao nhiệm vụ làm Chính trị uỷ viên Phòng Cung cấp. Ngay sau khi thành lập, Phòng Cung cấp Chiến khu đã kịp thời triển khai cho các Chi đội Giải phóng quân, phối hợp với chính quyền địa phương, các hội cứu quốc tăng cường thu mua gạo, vải, quần áo, thuốc men, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tự cung, tự cấp.

          Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Chiến khu, sự động viên của chính quyền, đoàn thể các địa phương và sự đóng góp, cung cấp, tiếp tế của nhân dân cả về nhân lực, vật lực, tài lực, Cơ quan Cung cấp Chiến khu và các lực lượng phục vụ đã nỗ lực khắc phục khó khăn, năng động, sáng tạo trong tổ chức thu mua, quyên góp, tổ chức phương tiện, lực lượng vận chuyển, tổ chức cứu thương, điều trị chăm sóc thương bệnh binh, kịp thời chi viện cho mặt trận hoàn thành nhiệm vụ.

          Hoạt động công tác cung cấp cho bộ đội được hình thành ngay khi thành lập Chiến khu, song mọi nhu cầu đảm bảo cho bộ đội (ăn, mặc, ở...) còn dựa vào sự tiếp tế, ủng hộ, quyên góp của nhân dân và chính quyền các địa phương. Sự chỉ đạo, đảm bảo của Nhà nước, Quân đội còn rất hạn chế và ít ỏi. Ngành Quân y với những cơ sở đầu tiên đã biết dựa vào dân, phát huy y học cổ truyền chữa bệnh bằng thuốc Nam, bước đầu hình thành bệnh viện quân dân y kết hợp. Cán bộ nhân viên y tế nêu cao tinh thần phục vụ, hết lòng, hết sức vì thương binh, bệnh binh. Trong quá trình tổ chức, hoạt động phục vụ LLVT Chiến khu, mặc dù công tác bảo đảm còn mang tính độc lập, bị động, dựa vào sự cung cấp, tiếp tế của nhân dân là chủ yếu, cán bộ, nhân viên làm công tác cung cấp đã bền bỉ chịu đựng nhiều gian khổ, hy sinh, anh dũng vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, hiệp đồng tổ chức đảm bảo phục vụ cho LLVT Chiến khu hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ chính quyền cách mạng.

          Ngày 25/1/1948, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 307 đổi tên các Chiến khu thành Liên khu. Chiến khu 4 được đổi thành Liên khu 4. Tháng 2 năm 1949, Hội nghị quân chính Liên khu 4 đề ra phương châm chỉ đạo trong lực lượng vũ trang toàn Liên khu là “Làm lấy mà ăn, mà đánh giặc”. Tổ chức phát động cuộc vận động phát triển nông nghiệp, các ngành nghề thủ công giải quyết nhu cầu cấp bách về ăn, ở, mặc, vũ khí, đảm bảo sức khỏe cho bộ đội. Cuộc vận động được nhân dân, lực lượng vũ trang hưởng ứng sôi nổi, rộng khắp, tiến hành đồng loạt nhiều biện pháp thực hiện có hiệu quả như: Tổ chức sản xuất “Kiểu mẫu”, tổ chức trại nhân giống trâu, bò, cá để cung cấp cho các tỉnh vùng tự do. Cải tạo, khôi phục các đồn điền cũ của Pháp thành cơ sở sản xuất quốc doanh...

          Bước vào năm 1950, để đảm bảo “Thực túc binh cường”, Liên khu 4 đã chủ trương phát động toàn dân thực hiện một số phong trào rộng lớn trong vụ chiêm, lấy tên “Vụ chiêm quyết thắng”, mục đích: Sản xuất để tự cấp, tự túc về ăn, mặc. Sản xuất để cung cấp cho bộ đội bảo đảm “Ăn no đánh thắng”, bảo đảm kháng chiến trường kỳ, đi đến thắng lợi.

          Trong suốt những năm đầu kháng chiến, ngành Hậu cần Liên khu 4 mặc dù còn rất non trẻ, lực lượng, cơ sở vật chất, trang bị vũ khí còn thiếu thốn, khó khăn trăm bề. Nhưng quán triệt lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thà  hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, cán bộ, nhân viên Ngành Cung cấp Liên khu đã bám sát chiến trường, bám sát bộ đội, đồng cam cộng khổ. Mặc cho những ngày tháng thiếu gạo, thiếu rau, lấy rau rừng thay cơm, mặc cho những cơn sốt rét, những trận mưa rừng, sên, vắt, ghẻ lở hành hạ, vẫn chịu đựng gian khổ hy sinh, nêu cao tinh thần phục vụ vô điều kiện, lo từng ống cơm, nắm gạo rang, viên thuốc...cho lực lượng vũ trang Liên khu chiến đấu.

Các thế hệ lãnh đạo, chỉ huy Cục Hậu cần chụp ảnh lưu niệm tại Gặp mặt kỷ 58 nam Ngày thành lập Cục Hậu cần.

2. Giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1954

          Xuất phát từ yêu cầu tổ chức và chỉ đạo công tác cung cấp bảo đảm cho bộ đội xây dựng lực lượng và tác chiến, đồng thời căn cứ quy định về tổ chức biên chế cơ quan, ngày 19 tháng 1 năm 1951, Bộ Tư lệnh Liên khu triệu tập hội nghị gồm các đồng chí trong Bộ Tư lệnh, Trưởng phòng Tham mưu, Thủ trưởng phòng Chính trị Liên khu, thống nhất tổ chức Phòng Cung cấp, Phòng Quân y Liên khu, Phòng Cung cấp, Phòng Quân y Mặt trận Bình - Trị - Thiên. Hội nghị xác định: Về tổ chức Phòng Cung cấp Liên khu, giữ các nguyên tắc: “Thống nhất sự lãnh đạo của tổ chức quân chính, tập trung lãnh đạo từng cấp, chỉ đạo thông suốt từ trên xuống dưới về hệ thống tổ chức chỉ huy”. Phòng Cung cấp gồm: Ban Tài lương, Ban Trang dụng, Ban Quân y và Tiểu Ban quản lý. Đồng chí Hoàng Trọng Diên được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Phòng Cung cấp, đồng chí Lê Khắc Thiện- Phó Chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Sỹ Oánh- Chính trị viên Phòng Cung cấp. Về tổ chức Đảng, Phòng Cung cấp thành lập một chi bộ do đồng chí Nguyễn Sỹ Oánh- Chính trị viên làm Bí thư.

          Tháng 6 năm 1951, Tổng cục Cung cấp mở lớp huấn luyện cán bộ hậu cần đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên: “Công việc cung cấp cũng quan trọng như việc trực tiếp đánh giặc trước mặt trận. Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội, thì mới đánh thắng trận” và trong hội nghị tổng kết chiến dịch Đường 18, Bác căn dặn: “Từ tiểu đổi trưởng trở lên, từ Tổng Tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống tinh thần, vật chất của đội viên, phải xem đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng, thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét, Bộ đội chưa đủ chỗ ở cán bộ không được kêu mình mệt”. Những lời căn dặn, động viên của Người vừa nêu rõ quan điểm phục vụ, vừa đề ra yêu cầu về phẩm chất, trách nhiệm cho ngành hậu cần từ trong kháng chiến, cũng như trong công tác bảo đảm sau này.

          Tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954) với quyết tâm phá vỡ âm mưu mới của địch, giành thắng lợi quyết định, làm thay đổi cục diện kháng chiến, Liên khu 4 được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ và phối hợp cùng quân và dân Lào mở chiến dịch tiến công địch trên chiến trường Trung - Hạ Lào. Để chuẩn bị cho chiến dịch Trung - Hạ Lào, Liên khu ủy quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận D (mặt trận Trung Lào); hiệp đồng với các địa phương huy động nhân lực, vật lực phục vụ tiền tuyến và bảo đảm mọi mặt công tác cung cấp lực lượng vũ trang Liên khu chiến đấu. Kết thúc chiến dịch Đông - Xuân, trên chiến trường Trung - Hạ Lào, Phòng Cung cấp Liên khu phối hợp với các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã bảo đảm cho liên quân Việt - Lào chiến đấu gồm 50 tấn vũ khí, 3.409 tấn gạo, 154 tấn muối, 2.102 con trâu, bò. Huy động 54.075 dân công với 1.974.800 ngày công, 1.427 thuyền, 2.217 xe đạp thồ, mở và sửa chữa 700 đường vận tải, gần 1000 km đường phục vụ hành quân chiến đấu.

          Khi chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, Liên khu ủy tổ chức hội nghị toàn Đảng bộ đánh giá tình hình, vạch kế hoạch công tác, mở cuộc vận động “Dốc bồ đổ thúng” để chi viện cho các chiến trường, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ. Liên khu 4 đã mở tuyến vận tải dài hơn 300km, vượt qua địa hình rừng núi hiểm trở, sông suối, đèo dốc; huy động gần 12.000 xe đạp thồ, nâng mức thồ mỗi xe lên 200kg. Kết thúc chiến dịch quân và dân Liên khu 4 đã huy động trên 50 nghìn người (cả bộ đội và dân công), huy động 10.000 tấn lương thực, 2.147 tấn thực phẩm, 751 con trâu, bò; trên 2000 thuyền, mảng, vận chuyển phục vụ chiến dịch 30.339 tấn hàng, 12.436 tấn đạn dược, 1083 tấn xăng dầu. Đặc biệt dân công xe đạp thồ của Thanh Hóa cả ba đợt phục vụ chiến dịch đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ thi đua.

Suốt 9 năm phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược trên địa bàn Liên khu 4, ngành Cung cấp Liên khu đã không ngừng được xây dựng, củng cố, phát triển và trưởng thành cả về tổ chức lực lượng, cả về quy mô hoạt động và phương thức đảm bảo. Từ buổi ban đầu mới được thành lập, toàn bộ công tác cung cấp dựa vào nhân dân và các địa phương tổ chức cung cấp tiếp tế lương thực, thực phẩm, trang bị, vũ khí, ăn, mặc, ở, do dân lo, mặc do dân sắm, thuốc chữa bệnh do dân cung cấp, cho các đội tự vệ, chi đội giải phóng quân chiến đấu, xây dựng lực lượng, hình thành nền hậu cần nhân dân. Trong kháng chiến chống Pháp, ngành Cung cấp đã bảo đảm cho chiến trường 870.000 tấn lương thực, thực phẩm, 900 tấn vũ khí do địa phương liên khu sản xuất; bảo đảm ăn nghỉ, sinh hoạt cho hơn 3.000 bộ đội giải phóng quân Lào và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào; đón 26.432 cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết. Đặc biệt đã tổ chức đảm bảo, góp phần quan trọng phục vụ chiến dịch Trung - Hạ Lào và chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi. Đây là bước phát triển mới trong tổ chức, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ đạo đảm bảo hậu cần cho LLVT Liên khu hoàn thành mọi nhiệm vụ, góp phần đưa cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp đến thắng lợi vẻ vang.

        

Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn, Phó Tư lệnh Quân khu tặng hoa, chúc mừng Ban Chấp hành Đảng bộ Cục Hậu cần khóa XVIII và đoàn đại biểu dự Đại hội Đảng bộ Quân lần thứ XI.

  II. HẬU CẦN LIÊN KHU, QUÂN KHU 4 TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 -1975)

          1. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1960

          Cuộc tổng tiến công chiến lược Đông- Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ giành thắng lợi vẻ vang, kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ của dân tộc ta, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương. Liên khu 4- một địa bàn vừa là chiến trường, vừa là hậu phương trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ngay khi vừa lập lại hòa bình lại bị chia cắt. Là lực lượng ở một Liên khu giới tuyến, ngành Cung cấp cùng một lúc vừa triển khai bảo đảm cho nhiều nhiệm vụ, vừa tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, củng cố khôi phục kinh tế, thu gom, bảo quản, bổ sung cơ sở vật chất, trang bị, vũ khí, phương tiện, bố trí sắp xếp lực lượng cung cấp trên địa bàn phù hợp với tình hình mới. Vừa bảo đảm cho tù, hàng binh, cho cán bộ, bộ đội, nhân dân miền Nam tập kết, cán bộ, quân tình nguyện Việt Nam ở chiến trường Lào về nước, bộ đội Lào tập kết và đảm bảo cho các nhiệm vụ đột xuất khác.

          Ngày 13 tháng 01 năm 1955 theo Quyết định của Bộ Quốc phòng đổi tên Tổng cục Cung cấp Quân đội nhân dân Việt Nam thành Tổng cục Hậu cần; Phòng Cung cấp Liên khu đổi thành Phòng Hậu cần, Ban Cung cấp các Trung đoàn, Tỉnh đội thành Ban Hậu cần; đồng thời, chỉ đạo và hướng dẫn các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân chấn chỉnh tổ chức sắp xếp lực lượng, đưa các hoạt động của ngành Hậu cần vào nền nếp theo hướng chính quy. Ngày 08 tháng 10 năm 1956, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định G6/TC về biên chế chính thức Phòng Hậu cần Liên khu gồm 11 ban, bao gồm: Ban Kế hoạch, Ban Tài vụ, Ban Huấn luyện, Ban Trang dụng, Ban Cấp dưỡng, Ban Doanh trại, Ban Quân y, Ban Quân khí, Ban Xăng dầu, Ban Chính trị và một tiểu đội vận tải. Đồng chí Đoàn La- nguyên là Tham mưu phó Liên khu được bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm kiêm Chính ủy Phòng Hậu cần, đồng chí Hoàng Trọng Diên được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Sỹ Oánh được bổ nhiệm làm Phó Chính ủy. Năm 1957, đồng chí Nguyễn Hữu Ngân và đồng chí Phan Trường Sinh được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Hậu cần Liên khu. Đảng bộ Phòng Hậu cần Liên khu cũng được thành lập, đồng chí Đoàn La làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Sỹ Oánh làm Phó Bí thư.

Ngày 03 tháng 6 năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 017/SL thành lập Quân khu 4. Cùng với việc củng cố, tổ chức lực lượng, việc bảo đảm chế độ, tiêu chuẩn ăn, ở, mang mặc, sức khỏe, vũ khí, phương tiện...cho lực lượng vũ trang Quân khu từng bước được cải thiện. Nhà nước đã ban hành các chế độ ăn, quân trang, tiền lương và chế độ phục vụ của sĩ quan, thay thế những quy định cung cấp trong kháng chiến chống Pháp. Về ăn bảo đảm thực hiện theo Nghị định số 315/NĐA ngày 25/6/1955 của Bộ Quốc phòng. Song song với việc bảo đảm đầy đủ tiêu chuẩn định lượng ăn cho bộ đội, Phòng Hậu cần tập trung chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chăn nuôi quanh bếp, quanh doanh trại trong toàn lực lượng vũ trang Quân khu, vừa tạo thêm nguồn vật chất cho xã hội, vừa góp phần ổn định và cải tạo thêm một phần đời sống bộ đội.

Về nhà ở của bộ đội, kho tàng, bệnh viện là nhu cầu rất cấp thiết; đầu tháng 2 năm 1957, Liên khu ủy triệu tập hội nghị cán bộ quân chính, chủ nhiệm hậu cần và cán bộ phụ trách quản lý doanh trại của các đơn vị, bàn kế hoạch xây dựng doanh trại cho bộ đội. Hội nghị đã thống nhất chủ trương: Tiếp nhận sử dụng có hiệu quả kinh phí trên cấp, tận dụng mọi khả năng bảo đảm tại chỗ, chủ động tổ chức cho bộ đội khai thác vật liệu xây dựng doanh trại; sử dụng 30% thời gian và lực lượng tổ chức bộ đội đi khai thác: gỗ, nứa, luồng, tranh ở rừng, đóng gạch xây dựng nhà cửa, kho tàng...

Trước yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi phải nâng cao chất lượng công tác cứu chữa, điều trị và chăm sóc sức khỏe cho bộ đội, vì vậy phải xây dựng, củng cố ngành Quân y một cách toàn diện, từ việc thành lập Viện Quân y 4, đến củng cố tổ chức, tăng cường đội ngũ bác sĩ, y sĩ, y tá cho các ban quân y trung đoàn, tỉnh đội, quân y tiểu đoàn, đại đội; chỉ đạo hướng dẫn tăng cường công tác vệ sinh, phòng bệnh ở các đơn vị, kết hợp Đông y và Tây y. Ngày 14/3/1960, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định thành lập Tiểu ban kiểm nghiệm Quân khu (tiền thân của Đội y học dự phòng ngày nay). Những cố gắng và sự phát triển của ngành Quân y Quân khu đã nâng cao được chất lượng điều trị, chăm sóc sức khỏe bộ đội, quan điểm, thái độ phục vụ tốt hơn, các dịch bệnh được hạn chế, công tác vệ sinh phòng bệnh được tăng cường, tỷ lệ quân số khỏe trong toàn Quân khu đạt từ 90%- 95%.

Ngày 19 tháng 5 năm 1959, Tổng Quân ủy thành lập “Đoàn công tác đặc biệt” để nghiên cứu tổ chức thực hiện mở tuyến vận tải 559. Ngay sau khi thành lập, đoàn đã vào Khu 4 phối hợp với các lực lượng vũ trang Quân khu tổ chức mở đường. Vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách trong những ngày đầu, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ ngành Hậu cần lực lượng vũ trang Quân khu vừa trực tiếp tham gia cùng Đoàn công tác đặc biệt của Bộ Quốc phòng khảo sát, mở đường, vận chuyển hàng hóa, vừa làm nhiệm vụ bảo đảm lương thực, thực phẩm, quân nhu...cho các lực lượng mở đường, góp phần quan trọng cùng các lực lượng xây dựng tuyến đường quân sự Trường Sơn vận chuyển hàng hóa chi viện kịp thời cho cách mạng miền Nam trở thành tuyến đường huyền thoại.

Cùng với việc xây dựng và phát triển lực lượng hậu cần, lãnh đạo, chỉ huy Phòng Hậu cần cũng chú trọng việc xây dựng nền nếp chính quy, chức trách nhiệm vụ cho cơ quan, đơn vị, cán bộ, nhân viên toàn ngành. Những cố gắng trên của ngành Hậu cần Quân khu đã thể hiện quan điểm, tinh thần khắc phục khó khăn, ý thức tự lực, tự cường của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ làm công tác hậu cần nhân dân, hậu cần quân đội, tạo ra tiền đề to lớn góp phần tích cực trong xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, bước đầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trên địa bàn Quân khu.

      

Đại tá Nguyễn Thanh Vân, Cục trưởng Cục Hậu cần Quân khu 4 trao kinh phí hỗ trợ xây dựng nhà tình nghĩa cho gia đình thương binh Nguyễn Văn Đồng, xóm Xuân Thọ, xã Nhân Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

    2. Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1964

          Để phối hợp bảo đảm tốt công tác hậu cần phục vụ chiến đấu, tháng 2 năm 1961, ngành Hậu cần Quân khu 4 tổ chức ký kết giao ước thi đua với ngành Hậu cần Quân khu Tả Ngạn, nội dung quyết tâm phấn đấu thi đua giành “Ba tốt” trong hoạt động hậu cần: Cải thiện sinh hoạt tốt nhất; đảm bảo chiến đấu tốt nhất; quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật tốt nhất.

          Từ tháng 4 năm 1961, thực hiện kế hoạch hậu phương và kế hoạch bảo đảm phòng thủ Quân khu 4 của Bộ Quốc phòng và Chỉ thị của Bộ Tư lệnh Quân khu, Phòng Hậu cần triển khai lập binh yếu địa chí để giúp Bộ Tư lệnh Quân khu nắm vững tiềm năng kinh tế quốc phòng của các tỉnh trên địa bàn, về khả năng huy động nhân lực, vật lực, vận dụng địa hình các vùng, miền, phục vụ phòng thủ đất nước. Binh yếu địa chí cho thấy tình hình các địa phương Quân khu 4 lúc bấy giờ. Binh yếu địa chí về mặt nhân lực, cơ sở vật chất, địa hình của Quân khu là cơ sở để ngành Hậu cần Quân khu dự kiến kế hoạch bảo đảm hậu cần theo yêu cầu của Bộ trong điều kiện hòa bình cũng như khi có chiến tranh xảy ra.

Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng ngành Hậu cần Quân đội tiến lên chính quy hiện đại, theo đề nghị của các Quân khu và Tổng Cục Hậu cần, ngày 16 tháng 11 năm 1961, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển tổ chức Phòng Hậu cần ở các Quân khu thành Cục Hậu cần Quân khu. Các ban trực thuộc Phòng Hậu cần trước đây được chuyển thành cấp phòng gồm: Phòng Kế hoạch, Phòng Quân nhu, Phòng Quản lý xe máy, Phòng Xăng dầu, Phòng Vận tải, Phòng Tài vụ, Phòng Chính trị. Ban Hậu cần ở các cấp Sư đoàn, Lữ đoàn, Tỉnh đội chuyển thành Phòng Hậu cần để tham mưu điều hành công tác hậu cần ở các đơn vị. Đây là mốc son lịch sử, đánh dấu sự phát triển, lớn mạnh của ngành Hậu cần. Cùng với việc chuyển đổi tổ chức, từ Quân khu đến các đơn vị đều sắp xếp lực lượng, bố trí cán bộ hậu cần phù hợp với biên chế. Cấp ủy, thủ trưởng các cấp thường xuyên quán triệt quan điểm của Đảng, của Bộ Quốc phòng, nêu cao trách nhiệm chính trị, cần kiệm, tự lực, tự cường, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tổ chức bảo đảm hậu cần theo phương thức mới cho lực lượng vũ trang Quân khu.

Là địa bàn chiến lược quan trọng, Quân khu 4 vừa phải chuẩn bị cho cuộc chiến đấu đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Đế quốc Mỹ, vừa phải bảo đảm cho hành lang chiến lược chi viện cho cách mạng miền Nam. Ngoài việc tiếp nhận, cấp phát thêm trang bị, vật chất hậu cần, còn phải giải quyết hàng loạt nhu cầu thiết yếu bảo đảm đời sống, sinh hoạt, sức khỏe, cấp cứu điều trị thương bệnh binh, bảo đảm giao thông vận tải...phục vụ cho LLVT Quân khu chuyển sang thời chiến. Với quyết tâm “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, ngành Hậu cần đã huy động tối đa lực lượng làm nhiệm vụ bảo đảm các mặt vật chất quân nhu, quân y, quân khí, xăng dầu, xe máy, đạn dược, cấp cứu thương binh, chuyển thương binh về nơi an toàn.

Giai đoạn 1961-1964 là giai đoạn Mỹ tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam nói chung và ở Trị - Thiên nói riêng, âm mưu của Mỹ là tiêu diệt LLVT của ta, triệt phá cơ sở cách mạng, Mỹ sử dụng quân đội Sài Gòn, được Mỹ trang bị vũ khí tối tân liên tục càn quét đánh phá ác liệt vùng giải phóng, dồn dân vào các ấp chiến lược. Cùng với âm mưu kiên quyết ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam, Mỹ đưa chiến trường Trị - Thiên lên mức độ ác liệt toàn diện. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Trị, Thừa Thiên, trong điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp, công tác hậu cần đã vận động nhiều hình thức sáng tạo, phong phú bảo đảm cho cả ba thứ quân: chủ lực, địa phương và dân quân du kích, chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, xây dựng căn cứ cách mạng, phát triển lực lượng, chống địch lập ấp chiến lược, dồn dân góp phần quan trọng đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy; đồng thời tham gia mở rộng, phát triển tuyến vận tải 559 (đường Hồ Chí Minh), chi viện cho cách mạng miền Nam.

          Cũng trong giai đoạn này, thực hiện nhiệm vụ quốc tế theo chủ trương của Đảng,  chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 4, ngành Hậu cần Quân khu tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần giúp bạn Lào. Tham gia các đoàn chuyên gia quân sự giúp Lào xây dựng ngành Hậu cần quân đội Lào ở các cấp, xây dựng hình thành các khu vực bảo đảm hậu cần tại chỗ trên các địa bàn, bồi dưỡng, giúp đỡ cán bộ, nhân viên hậu cần, xây dựng chế độ, nền nếp công tác hậu cần, hỗ trợ tạo cơ sở quan trọng để Bạn từng bước tiến lên tự đảm nhiệm công tác hậu cần. Hướng dẫn giúp đỡ bạn khai thác các nguồn cung cấp, tổ chức vận chuyển hàng viện trợ của Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa cho Lào, giúp Bạn tổ chức bảo đảm hậu cần cho các  LLVT của Bạn xây dựng, chiến đấu, nhất là bảo đảm cho các chiến dịch liên minh chiến đấu giữa quân tình nguyện Việt Nam và các lực lượng cách mạng Lào, tạo nền tảng xây dựng liên minh chiến đấu giữa hai quân đội Việt - Lào phát triển bền vững.

           

Bệnh viện Quân y 4, Cục Hậu cần Quân khu tổ chức khám bệnh, tư vấn sức khỏe, cấp thuộc miễn phí cho các thương, bệnh binh tại Trung tâm điều dưỡng thương, bệnh binh Nghệ An.

3. Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975

          a) Từ năm 1965 đến năm 1972

          * Hậu cần Quân khu 4

          Từ năm 1965, chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ lan rộng trên miền Bắc và ngày càng ác liệt. Thất bại trong “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, để cứu vãn tình thế Mỹ phát động “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân viễn chinh trực tiếp xâm lược miền Nam, đồng thời dùng lực lượng lớn không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, trong đó địa bàn Quân khu 4 trở thành khu vực trọng điểm. Đây là thời kỳ hoạt động đầy khó khăn gian khổ, nhưng ngành Hậu cần Quân khu luôn nêu cao ý chí quyết thắng, vượt qua mọi khó khăn ác liệt, nhanh chóng xây dựng và phát triển lực lượng, kết hợp chặt chẽ giữa hậu phương và chiến trường, giữa các nguồn cung cấp và các tổ chức lực lượng hậu cần trong và ngoài quân đội, tạo nên thế trận liên hoàn vững chắc của đường lối chiến tranh nhân dân với những phương thức bảo đảm hậu cần linh hoạt, sáng tạo...là nét nổi bật của ngành Hậu cần Quân khu trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc.

          Trong giai đoạn này, lực lượng ngành Hậu cần phát triển nhanh chóng, từ 400 cán bộ, nhân viên đầu năm 1964 đã nhanh chóng tăng lên gần 5000 người, hình thành lực lượng hậu cần vững chắc trên 3 khu vực phía bắc, phía nam và phía tây. Về phương thức bảo đảm luôn chủ động, linh hoạt, cơ động, phát huy được tiềm năng, sức mạnh của nhân dân và từng địa phương: Thực hiện khoanh vùng cung cấp, quan hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương, dựa vào nhân dân; đẩy mạnh tăng gia sản xuất, xây dựng thành phong trào vườn rau, ao cá, con gà, hũ gạo, bó củi dự trữ ở từng gia đình; xây dựng các vành đai thực phẩm quanh một số bệnh viện, đoàn an, điều dưỡng...Trong tình hình cơ động và chiến đấu khẩn trương, liên tục, một số đơn vị vẫn bảo đảm được ăn nóng, ăn sạch, ăn đúng bữa, ăn đủ định lượng. Về bảo đảm ở, thực hiện phương hướng chung là: bộ binh chủ yếu ở nhà dân, các đơn vị cơ động chiến đấu chủ yếu làm lán cơ động, dùng lều bạt dã chiến; doanh cụ, phương tiện sinh hoạt chủ yếu là khai thác, tận dụng từ trước và nguồn tại chỗ.

Nhiệm vụ giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu giai đoạn này, càng trở nên ác liệt. Vùng đất Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh và nhiều địa phương khác trở thành “Tọa độ lửa”. Những địa danh như Hàm Rồng, Truông Bồn, Ngã ba Đồng Lộc, Long Đại ... đã trở thành những huyền thoại, là nơi thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quyết chiến, quyết thắng của con người Việt Nam, của người dân Khu 4, thể hiện cao đẹp nhất, rực rỡ nhất, nơi chôn vùi ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Những khẩu hiệu “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Nh­ường nhà để hàng, nh­ường làng để xe”, “Hòn đá chống Mỹ”, “Sống bám trụ cầu đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Dù mạch máu ta tắc, giao thông không thể tắc”...đã ra đời từ trong hoàn cảnh đó. Nhiều cán bộ, chiến sỹ ngành vận tải đã nêu cao tấm gương về lòng dũng cảm, mưu trí vượt qua đạn bom, khắc phục khó khăn thử thách, với phương châm “tăng cân, vượt chuyến, đưa hàng tới đích an toàn”, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; nhiều tập thể, cá nhân được tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân như Đại đội 1 vận tải ô tô, lái xe Đoàn Minh Nguyệt...Ở ngã ba Đồng Lộc tiểu đội nữ thanh niên xung phong với 10 cô gái ở tuổi 20, do Võ Thị Tần làm tiểu đội trưởng đã anh dũng hi sinh để bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt, để lại bản anh hùng ca về tấm gương bất tử.

Đối với ngành quân y, đây là giai đoạn có sự phát triển mạnh cả về quy mô,  lực lượng, cường độ hoạt động. Năm 1966 tỷ lệ thương binh được cấp cứu, vận chuyển về cơ sở điều trị kịp thời là 52,10%; trong nhiều trận, việc cấp cứu hỏa tuyến hoàn toàn do quân y đại đội kết hợp với dân y địa phương tự giải quyết trọn vẹn. Đối với Bệnh viện Quân y 4 từ quy mô 400 giường bệnh chuyển thành bệnh viện hậu phương thời chiến có quy mô hơn 500 giường, có lúc đến 700-800 giường bệnh. Nhiều phong trào ngành y được phát động như: “Tiến công mạnh vào khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng điều trị”, “Tin tưởng chuyên môn, an tâm điều trị”...Ngày 31 tháng 7 năm 1967, Bác Hồ đã gửi thư và tặng Bằng khen cho Bệnh viện Quân y 4. Đây là vinh dự, nguồn động viên khích lệ lớn đối với ngành y Quân khu nói chung và Bệnh viện Quân y 4 nói riêng.

          Cũng trong giai đoạn này, tuyến đường ống dẫn xăng dầu dài gần 1.000 km từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường do Cục Xăng dầu và Đoàn 559 thi công cũng đã hoàn thành. Theo chỉ thị của Bộ, các đơn vị thuộc Quân khu 4, các địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã huy động hàng trăm cán bộ, công nhân kỹ thuật, hàng nghìn nhân công, thanh niên xung phong cùng tham gia thi công tyến đường ống vượt qua sông Mã (Thanh Hóa), sông Lam (Nghệ An) vào Hà Tĩnh, qua sông Ngàn Sâu, qua Cổng Trời sang tây Trường Sơn, cấp phát được gần 7.500 tấn xăng dầu, bảo đảm cho mọi hoạt động của tuyến chiến lược.

          Thắng lợi to lớn của quân và dân ta ở miền Nam và chiến thắng của quân và dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa lần thứ 2, đặc biệt là đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không, chủ yếu bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 có ý nghĩa lịch sử, làm cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ phá sản. Tổng thống Ních-xơn phải tuyên bố ngừng ném bom, bắn phá miền Bắc nước ta. Trong thắng lợi vẻ vang đó, có phần đóng góp xứng đáng của quân và dân Khu 4 nói chung, ngành Hậu cần Quân khu 4 nói riêng.

          * Hậu cần Quân khu Trị Thiên

          Sau thất bại chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh cả ở hai miền Bắc và miền Nam bằng lực lượng chiến đấu của Mỹ. Chiến trường Trị Thiên - Huế là một trong những trọng điểm bình định và đánh phá của địch. Trước tình hình đó, Đảng bộ và nhân dân hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên quyết tâm củng cố lực lượng, đưa chiến tranh nhân dân phát triển lên một bước mới, đủ sức đương đầu với chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Theo đề nghị của Quân khu Trị Thiên – Huế, cuối năm 1964, Phòng Hậu cần Quân khu Trị- Thiên được thành lập gồm 4 ban: Quân nhu, Quân khí, Quân y, Tài vụ. Ở hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và Thành phố Huế, hệ thống hậu cần từ tỉnh xuống các huyện, xã cũng được hình thành.

          Năm 1969 là năm khó khăn khốc liệt nhất của quân và dân Trị - Thiên. Trước tình hình trên, Quân khu Trị - Thiên đã đề ra nhiều biện pháp khắc phục, nhằm cải thiện tình hình, xây dựng lại thế trận ở rừng núi, đánh bại các cuộc hành quân của địch, trực tiếp hỗ trợ cho phong trào đấu tranh ở đồng bằng, củng cố lại tổ chức và kiên quyết khắc phục khó khăn về hậu cần. Tháng 2 năm 1969, Phòng Hậu cần Quân khu Trị - Thiên được nâng lên thành Cục Hậu cần, có đủ cơ quan chỉ đạo gồm: Thủ trưởng Cục, các Phòng Kế hoạch, Vận tải, Quân y, Quân khí, Tài vụ, Quân nhu, Chính trị, Công binh, Thông tin. Sau khi hoàn chỉnh về tổ chức, Cục Hậu cần bố trí lại các cụm căn cứ để phù hợp với nhiệm vụ tác chiến từng thời kỳ và từng khu vực. Cùng với việc hình thành các căn cứ, hệ thống kho tàng cũng được củng cố. Kho dự trữ phía sau, kho thường xuyên cấp phát, kho phía trước được xây dựng để trực tiếp bảo đảm cho các đơn vị chiến đấu. Ngoài ra còn có kho cơ động, lực lượng vận tải, lực lượng công binh, đội điều trị, đội chuyển thương, lực lượng khai thác hậu cần tại chỗ, lực lượng tăng gia sản xuất. Tháng 3 năm 1969, Đội điều trị 86 được chia thành hai bộ phận, một bộ phận bảo đảm hướng nam Thừa Thiên, một bộ phận phục vụ chiến dịch Cô Ca Va. Đội điều trị 84 cũng được chia làm hai bộ phận, một bộ phận bảo đảm cho hướng bắc Thừa Thiên, một bộ phận làm lực lượng dự trữ cơ động của Quân khu. Tháng 4 năm 1970, Quân khu Trị - Thiên tiếp nhận bệnh viện giã chiến 68 của Đoàn 559 chuyển giao sang. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng công tác đảm bảo hậu cần ở Trị - Thiên giai đoạn này vẫn gặp rất nhiều khó khăn, tuyến hậu cần chiến lược bị địch đánh phá gây tổn thất nặng.

          Để giải quyết công tác bảo đảm hậu cần cho tác chiến trước mắt cũng như lâu dài, hậu cần Trị - Thiên nhanh chóng sơ tán kho hàng, đẩy mạnh công tác xây dựng hậu phương, chú trọng sản xuất. Cuối năm 1970, những khó khăn về hậu cần đã dược khắc phục một bước. Các nguồn vật chất từ hậu phương chuyển vào, từ khai thác tại chỗ, từ tăng gia sản xuất đảm bảo cho lực lượng vũ trang Trị - Thiên tương đối kịp thời, đầy đủ. Vận tải cơ giới phát triển mạnh đã vươn lên cấp Trung đoàn; hệ thông bệnh viện, đội điều trị được điều chỉnh lại, tăng cường đội ngũ y, bác sỹ. Thế và lực hậu cần chiến trường vững chắc hơn, đủ sức bảo đảm cho các chiến dịch lớn và chủ động giải quyết các tình huống đột xuất.

          Ngày 30 tháng 3 năm 1972, chiến dịch tiến công Quảng Trị được mở màn và hơn 300 ngày đêm phục vụ tác chiến trên chiến trường Quảng Trị, hậu cần chiến dịch đã bảo đảm 48.000 tấn vật chất các loại; cứu chữa cho 31.309 thương binh, 23.454 bệnh binh, sửa chữa vừa và nhẹ 3.179 lượt ô tô, 584 lượt xe xích, 955 khẩu pháo mặt đất, 1.831 lượt khẩu pháo cao xạ... Trong thời gian phục vụ chiến dịch, riêng lực lượng hậu cần có 403 đồng chí hy sinh, 769 đồng chí bị thương.

          Chiến dịch tiến công giải phóng Quảng Trị và cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng năm 1972 không những là mốc son lịch sử của quân và dân Trị -Thiên mà còn là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972 là một thử thách lớn, đồng thời cũng là bước trưởng thành của ngành Hậu cần Quân đội nói chung, hậu cần nhân dân Trị Thiên nói riêng.

        

Cán bộ, nhân viên Bệnh viện Quân y 4, Cục Hậu cần hiến máu nhân đạo.

  * Hậu cần giúp Bạn Lào (1965 - 1972)

          Ngày 18 tháng 5 năm 1965, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đoàn chuyên gia quân sự và quân tình nguyện Việt Nam mang phiên hiệu Đoàn 565 thuộc Quân khu 4 sang đến các đại đội, cùng các địa phương trên địa bàn phát triển quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng giải phóng trong vùng địch hậu. Về đảm bảo hậu cần, Đoàn được thành lập một số kho, trạm, phân đội vận tải, quân y do hậu cần Quân khu 4 trực tiếp bảo đảm. Do địa bàn hoạt động quá rộng, cả trong vùng giải phóng, cả trong vùng địch hậu, tính chất hoạt động lại phức tạp từ cấp Trung đoàn, Tiểu đoàn, Đại đội và từng tốp nhỏ lẻ. Cục Hậu cần đã chỉ đạo Đoàn 565 bảo đảm theo nguyên tắc: trực tiếp đến các đơn vị đầu mối, những đơn vị hoạt động ở xa mà hậu cần đoàn không vươn tới kịp thì hiệp đồng với đơn vị tại chỗ và hậu cần Bạn. Cuối năm 1965, Tổng cục Hậu cần tăng cường lực lượng cho các chiến trường. Tại khu vực Trung và Hạ Lào, Tổng cục tăng cường Đội điều trị 82 (biên chế 135 người), 1 bệnh xá 15 giường, 1 phân xưởng dược biên chế 119 người và một số kho để tiếp nhận hàng do Đoàn 559 phối hợp với lực lượng hậu cần Quân khu 4 vận chuyển tới dự trữ và bảo đảm cho lực lượng ta và bạn hoạt động.

          Được sự giúp đỡ to lớn của quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, quân giải phóng nhân dân Lào cùng các lực lượng yêu nước đã vượt qua mọi khó khăn thử thách ác liệt, đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét của địch, giữ vững vùng giải phóng, củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân ngày càng lớn mạnh. LLVT Quân khu 4 làm nhiệm vụ giúp bạn trên chiến trường Trung - Hạ Lào, một chiến trường rộng lớn, phức tạp, cuộc chiến ở đây hết sức ác liệt. Chính vì vậy công tác bảo đảm hậu cần cho các lực lượng trên chiến trường Lào cũng là nhiệm vụ hết sức khó khăn, gian khổ; đặc biệt là bảo đảm cho các đơn vị nhỏ lẻ vùng sâu vùng xa, vùng sau lưng địch. Xác định nhiệm vụ giúp Bạn là tự giúp mình, ngành Hậu cần Quân khu 4 đã tập trung lực lượng, đồng cam, cộng khổ, chia ngọt, sẻ bùi với Bạn. Luôn bảo đảm kịp thời, đầy đủ những nhu cầu về vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật cho quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, lực lượng cách mạng Lào chiến đấu giành thắng lợi trên chiến trường Trung - Hạ Lào, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang.

          4. Giai đoạn 1973-1975

          Trong giai đoạn này, ngành Hậu cần Quân khu vừa phục vụ chiến đấu, vừa xây dựng điều chỉnh, hình thành dần hệ thống cơ sở hậu phương chiến dịch vươn lên phía trước ở từng hướng theo thế trận hậu cần khu vực, đưa công tác quản lý cơ sở vật chất hậu cần đi vào chế độ quy định. Hệ thống kho tiếp nhận trên đường 9 và kho dự trữ trên đường 71B, C; thành lập đội điều trị tại đường 71B. Cùng với việc xây dựng mạng lưới giao thông, công tác bảo đảm hậu cần cũng được triển khai, bao gồm việc chuẩn bị hệ thống kho tàng, trạm dự trữ xăng dầu, trạm sửa chữa xe cơ giới, vũ khí, khí tài và tổ chức tiếp nhận hàng từ hậu phương miền Bắc chi viện cho chiến trường Trị - Thiên. Những kết quả trong chiến đấu, xây dựng lực lượng và thế trận mà quân và dân Trị - Thiên giành được trong hai năm 1973 - 1974 đã tạo ra các yếu tố cơ bản, vững chắc để tiếp tục phát huy thế tiến công, hoàn thành nhiệm vụ đánh phá “bình định” của địch, cùng cả nước tiếp tục giành những thắng lợi mới to lớn hơn.

          Ngày 8 tháng 3 năm 1975, chiến dịch Trị - Thiên mở màn, ngành Hậu cần đã bám sát tình hình phát triển, bảo đảm đầy đủ, chính xác, kịp thời cho từng đơn vị và từng trận đánh. Quá trình diễn biến chiến dịch, cũng là quá trình diễn biến của công tác bảo đảm hậu cần tại chỗ, hậu cần nhân dân, hậu cần quân đội tạo nên một thế trận hậu cần liên hoàn trong từng khu vực, trên cả chiến trường đáp ứng kịp thời, đầy đủ cho các lực lượng chiến đấu góp phần thắng lợi to lớn trong chiến dịch giải phóng hoàn toàn Trị Thiên - Huế vào ngày 26 tháng 3 năm 1975.

Cục Hậu cần Quân khu trao quà tặng các đối tượng chính sách trên địa bàn.

III. NGÀNH HẬU CẦN QUÂN KHU TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC, THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI

          1. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985

          Giai đoạn 1975 - 1985 cả nước được độc lập, thống nhất cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn mà đất nước ta phải đương đầu và vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách. Ngay sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh, với những hậu quả để lại hết sức nặng nề và sự tàn phá của thiên tai, bão lụt, biến động về giá-lương-tiền tác động mạnh đến đời sống nhân dân và LLVT Quân khu; những khó khăn, cam go, thử thách quyết liệt đặt ra nhiều vấn đề phải tập trung giải quyết. Trong bối cảnh đó lại phải đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch (bao vây cấm vận kinh tế, cô lập về chính trị, phá hoại về quân sự, gây mất ổn định xã hội ) và hai cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu đất nước.

Đối với lực lượng vũ trang Quân khu nói chung và ngành Hậu cần nói riêng trong giai đoạn này có nhiều biến động, thay đổi, sắp xếp về tổ chức biên chế lực lượng và yêu cầu nhiệm vụ. Đây là thời kỳ công tác bảo đảm hậu cần vốn đã khó khăn lại càng thêm khó khăn; là thời kỳ phân phối, bao cấp... Nhưng được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp, các ngành, trực tiếp là Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, ngành Hậu cần đã tập trung mọi nỗ lực đẩy mạnh lao động sản xuất, chế biến, thực hành tiết kiệm, diện tích tăng gia sản xuất tăng 49,3% so với năm 1975; bằng nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng; cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp đã phát huy truyền thống kiên cường dũng cảm, đồng cam cộng khổ, dốc sức đồng lòng cùng nhau chủ động khắc phục khó khăn. Để nâng cao chất lượng đời sống bộ đội nhất là về ăn, ở, ngày 28 tháng 8 năm 1975, Tư lệnh Quân khu thành lập Tổng đội công trình xây dựng thuộc Cục Hậu cần, tập trung thực hiện 2 nhiệm vụ chính: Xây dựng cơ bản các công trình nhà ở của cơ quan Quân khu bộ, bệnh viện, nhà trường, hệ thống kho, xưởng, trạm...; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thợ kỹ thuật xây dựng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Tổng đội và cung cấp một phần thợ cho các đơn vị làm hạt nhân trong xây dựng cơ bản; tích cực khai thác nguyên vật liệu, tổ chức đóng mới dụng cụ sinh hoạt; xây mới 43.973 m2, sửa chữa lớn 22.000 m2 doanh trại; giải quyết cơ bản nhà ở bộ đội không phải ở nhờ nhà dân.

Dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, ngành Hậu cần Quân khu cũng luôn đảm bảo đầy đủ kịp thời cho các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ; kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng trong các khâu sản xuất, xây dựng cơ bản, phân bố dân cư, y tế, thủy lợi, giao thông, bưu điện, dịch vụ; tạo nguồn vật chất dự trữ tại chỗ, xây dựng lực lượng hậu cần nhân dân, thế trận lực lượng hậu cần quân đội và hậu cần nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công tác bảo đảm hậu cần. Những kết quả thiết thực đạt được đã góp phần quan trọng cùng lực lượng vũ trang Quân khu hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, cũng như làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Lào. Tuy nhiên, do khó khăn của nền kinh tế, cơ chế bảo đảm hậu cần còn lúng túng; chất lượng hiệu quả tăng gia sản xuất, đời sống bộ đội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới cơ chế, phương thức bảo đảm hậu cần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.

          2. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000

          Đây là giai đoạn sắp xếp lại tổ chức biên chế ngành Hậu cần Quân khu. Thực hiện chủ trương về điều chỉnh rút gọn tổ chức biên chế của Quân khu với phương châm “Quân số giảm, sức chiến đấu tăng”. Nhằm tăng cường nâng cao chất lượng hiệu quả công tác bảo đảm hậu cần đời sống nhất là về bữa ăn, chỗ ở cho lực lượng vũ trang toàn Quân khu. Ngày 5 tháng 4 năm 1993, Tư lệnh Quân khu ra Quyết định thành lập Ban chỉ đạo phát triển vùng kinh tế nông, lâm, ngư, nghiệp. Ngày 6 tháng 8 năm 1993, Quân khu thành lập Phòng Kinh tế trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu, có nhiệm vụ tham mưu, chỉ đạo, quản lý mọi hoạt động kinh tế của của lực lượng vũ trang Quân khu. Cũng trong thời điểm này nhiều phong trào và nhiều cuộc vận động có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ của ngành Hậu cần đã được triển khai thực hiện như phong trào “Làm ra để ăn, xây lên để ở”, “Tiết kiệm là quốc sách”, “Điều trị an toàn, tiết kiệm”, “Sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, phong trào “Nuôi quân giỏi, quản lý tốt”. Đặc biệt phong trào thi đua “Xây dựng đơn vị quân y 5 tốt, chiến sỹ quân y làm theo lời Bác” đã được phát động từ trước năm 1990 và được phát triển thành cuộc vận động sâu rộng trong toàn ngành cũng như ở hầu hết các cơ quan, đơn vị trong toàn Quân khu. Kết quả hoạt động các phong trào trên của lực lượng vũ trang Quân khu nói chung, ngành Hậu cần Quân khu và từng ngành nghiệp vụ nói riêng đã thu được những kết quả thiết thực, góp phần bảo đảm ngày một tốt hơn các nhu cầu đời sống của bộ đội, nhất là về bữa ăn, chỗ ở, sức khỏe và văn hóa tinh thần. Cùng với sự quan tâm của lãnh đạo chỉ huy, cơ quan hậu cần các cấp, Nhà nước có chế độ chính sách cải cách chế độ tiền lương (từ tháng 1 năm 1994) nên công tác bảo đảm hậu cần cho lực lượng vũ trang Quân khu cơ bản đáp ứng được, bữa ăn của bộ đội có bước cải thiện hơn. Từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 8 tháng 8 năm 1994, ngành Hậu cần tổ chức hội thao tổng hợp lần thứ nhất tại Trung đoàn 335, Sư đoàn 324 với 3 chuyên ngành: Quân nhu, Quân y, Vận tải nhằm nâng cao chất lượng công tác huấn luyện và bảo đảm hậu cần sát với thực tế chiến đấu, hoạt động LLVT Quân khu. Kết quả hội thao: Giải nhất thuộc về Sư đoàn 324, giải nhì thuộc về Bộ CHQS tỉnh Thanh Hóa, Trung đoàn 80 đạt giải ba.

          Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo đảm hậu cần cho Quân đội trong thời kỳ mới, ngày 14 tháng 3 năm 1995, tại Hội nghị Hậu cần toàn quân, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ra Chỉ thị số 241/CT-BQP, phát động phong trào thi đua “Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy trong toàn quân”. Chỉ thị đã đề ra 3 nội dung: Hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần thường xuyên cũng như đột xuất trong mọi tình huống; Quản lý, sử dụng tốt cơ sở vật chất hậu cần, tài chính được giao; Xây dựng ngành Hậu cần vững mạnh về mọi mặt. Tại Quân khu 4, ngay sau khi nhận được Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu đã kịp thời quán triệt sâu sắc mục đích, nội dung, mục tiêu, yêu cầu Chỉ thị của Bộ trưởng và tiến hành thành lập Ban chỉ đạo Phong trào thi đua của Quân khu. Đồng thời, Quân khu giao cho Cục Hậu cần tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị của Bộ trưởng trong toàn lực lượng vũ trang Quân khu và thống nhất phong trào được đặt dưới sự lãnh đạo điều hành của cấp ủy, người chỉ huy các cấp.

          Thực hiện chỉ thị của Tư lệnh Quân khu, ngày 19 tháng 5 năm 1997, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tổ chức Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” của lực lượng vũ trang Quân khu. Những kết quả thiết thực đạt được qua thực hiện phong trào thi đua đã thực sự góp phần cải thiện nâng cao đời sống mọi mặt cho bộ đội, đồng thời tiếp tục khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả. Ghi nhận những thành tích đã đạt được về thực hiện phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” của lực lượng vũ trang Quân khu 4, tại hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện phong trào toàn quân tháng 7 năm 1997 được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, ngành Hậu cần Quân khu 4 đã vinh dự được Bộ Quốc phòng tặng cờ “Đơn vị có phong trào khá nhất”.   

          Cũng trong giai đoạn này 2 Căn cứ Hậu cần của Quân khu được thành lập, theo Quyết định 154/QĐ-TL ngày 8/4/2000 của Tư lệnh Quân khu.

          3. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay

          a) Từ năm 2001 đến năm 2010

Từ năm 2001 đến 2005, trên cơ sở kế hoạch, chỉ lệnh hậu cần hàng năm, ngành Hậu cần Quân khu đã chỉ đạo cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện bảo đảm tốt công tác hậu cần trên tất cả các mặt. Về bảo đảm quân nhu, năm 2001 đã chỉ đạo tăng gia sản xuất, chăn nuôi, chế biến đưa vào bữa ăn của bộ đội. Duy trì tốt các trạm xay xát, chế biến tập trung ở các Trung đoàn, Sư đoàn đủ quân và các Trung đoàn, Lữ đoàn binh chủng. Về bảo đảm sức khỏe, đã làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường không để dịch bệnh xảy ra, thu dung điều trị an toàn ở tuyến bệnh xá và hai bệnh viện Quân khu. Đối với các dự án xây dựng cơ bản và các công trình kinh tế kết hợp Quốc phòng được đầu tư có diện rộng và tập trung vào những trọng điểm theo sự chỉ đạo của Bộ và Quân khu. Trong công tác vận tải, thường xuyên vận chuyển bảo đảm an toàn hàng hóa theo đúng kế hoạch. Về nhiệm vụ làm kinh tế, đã chỉ đạo các công ty, xí nghiệp, các đoàn kinh tế quốc phòng, Trường dạy nghề số 4 triển khai đạt kết quả tốt.

          Trong hai năm 2006, 2007, ngành Hậu cần đã chỉ đạo các đơn vị giải quyết tốt nguồn nước sinh hoạt cho các đơn vị khó khăn như Trung đoàn 1 - Sư đoàn 324, Trung đoàn 19 - Sư đoàn 968, Lữ đoàn 16, Tiểu đoàn 12 - Bộ Tham mưu, Tiểu đoàn 13 - Trung đoàn 80, Cụm kho CK3 - Cục Kỹ thuật. Chủ động đề nghị Bộ Quốc phòng thông qua dự án đầu tư xây dựng Bệnh viện Quân y 268, Sở chỉ huy của Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình. Tập trung đầu tư kinh phí để xây dựng hệ thống điện, nước, xây dựng bể dự trữ nước ngọt tuyến đảo và xử lý nước sinh hoạt cho các đơn vị còn sử dụng nước thiên nhiên. Để thực hiện chủ trương bảo đảm cho bộ đội được tắm nước nóng về mùa đông, các đơn vị đã tích cực xây bếp đun than, lắp đặt bình đun bằng điện. Toàn Quân khu đạt 68% quân số có nước nóng tắm về mùa đông, một số đơn vị đạt 90-100%. Nổi lên là Sư đoàn 341, cơ quan Quân khu, Đoàn 337, Đoàn 5, Đoàn 92, Lữ đoàn 414, Lữ đoàn 16, Trung đoàn 80 và Bộ chỉ huy quân sự 6 tỉnh. Công tác vận tải đã cung ứng than cho các đơn vị bảo đảm chất lượng than tốt, giá rẻ hơn thị trường từ 10 đến 15 nghìn đồng/ tấn, góp phần nâng cao chất lượng bữa ăn cho bộ đội. Thực hiện ký kết hợp đồng với Tổng Cục Công nghiệp quốc phòng đóng tàu vận tải quân sự 450 tấn. Hàng năm vận chuyển hơn 30-40 nghìn tấn hàng hóa các loại, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Nhằm nâng cao chất lượng bữa ăn của bộ đội, giảm bớt những tác động xấu của thị trường và bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, năm 2008 các đơn vị tổ chức hoạt động xay xát, giết mổ tập trung, cung cấp được một phần lương thực, thực phẩm cho bộ đội với chất lượng khá tốt, giá cả hợp lý. Trạm giết mổ, chế biến được duy trì đều đặn, chất lượng sản phẩm tốt. Các đơn vị không có trạm giết mổ, chế biến đã cố gắng chế biến đậu phụ, nước mắm. Điểm nổi bật năm 2008, một số đơn vị đã trồng rau có mái che, hạn chế được tác động của thời tiết, nên dù giữa mùa hè hay mưa kéo dài, các đơn vị vẫn trồng được rau, củ, quả, chất lượng bữa ăn bộ đội vẫn được bảo đảm. Thực hiện Phong trào thi đua “Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” giai đoạn 2005 – 2010 ngành Hậu cần đã tập trung nâng cao trình độ khả năng bảo đảm hậu cần cho sẵn sàng chiến đấu, xử lý kịp thời các tình huống, không để bị động bất ngờ. Tập trung đầu tư bảo đảm hậu cần cho các lực lượng làm nhiệm vụ ở địa bàn trọng điểm, biên giới, hải đảo, các đơn vị đủ quân, đơn vị mới thành lập, chia tách. Đã huy động kịp thời phương tiện, vật chất và lực lượng tham gia phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Từ năm 2005 đến năm 2010, toàn Quân khu có 136 tập thể, 260 cá nhân được Bộ Quốc phòng, Tổng Cục Hậu cần và Quân khu tặng Bằng khen. Tiêu biểu là tập thể Cục Hậu cần, Sư đoàn 324, Sư đoàn 968, Lữ đoàn 414, Trung đoàn 206 và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An; Cục Hậu cần được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen trong Phong trào thi đua “Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”.

          b) Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015

          Để nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, bảo đảm hậu cần thường xuyên và SSCĐ; từ ngày 2 đến ngày 3 tháng 6 năm 2011, tại Trung đoàn 1, Sư đoàn 324, Ngành Hậu cần tổ chức hội thao lần thứ 3 với 4 chuyên ngành: Tham mưu, Quân nhu, Quân y, Vận tải; kết quả hội thao: Sư đoàn 324 giành giải nhất, Bộ CHQS tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đạt giải nhì, Lữ đoàn 414, 16 và Trung đoàn 80 đạt giải 3. Năm 2011, ngành Hậu cần tham gia kiểm tra “Đơn vị vận tải chính quy, an toàn, hiệu quả” toàn quân, đoạt giải nhất toàn đoàn, được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen. Kỷ niệm 50 năm thành lập, Cục Hậu cần Quân khu được Chủ tịch nước tặng Huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng Ba.

          Trong năm 2012, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu, trực tiếp là cấp ủy, chỉ huy các cấp, các cơ quan, đơn vị tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, thực hiện chủ trương “Một tập trung, ba khâu đột phá” gắn với việc đẩy mạnh “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng ngành Hậu cần vững mạnh toàn diện. Trong đó đi sâu giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức lối sống và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên hậu cần các cấp. Chủ trương “Một tập trung” đã bám sát nhiệm vụ quân sự - quốc phòng của lực lượng vũ trang Quân khu, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị, nhất là của các đơn vị sẵn sàng chiến đấu, ở tuyến biên giới, biển đảo, các đơn vị làm nhiệm vụ phòng chống lụt, bão, tìm kiếm cứu nạn, chủ động bảo đảm lực lượng, phương tiện và vật chất hậu cần khi có nhu cầu. Công tác nghiên cứu, ứng dụng được chú trọng, trong năm 2012 đã triển khai lắp đặt, nghiệm thu đưa vào sử dụng 81 bếp lò hơi cơ khí, sản xuất 12 bộ bếp nấu ăn dã ngoại phục vụ cho nhiệm vụ huấn luyện và diễn tập có hiệu quả. Các đơn vị trong toàn Quân khu tích cực triển khai nhiệm vụ tăng gia sản xuất, thu hoạch được 2.244 tấn rau, củ, quả; 1.346 tấn thịt gia súc, gia cầm. Tổng giá trị thu từ tăng gia sản xuất toàn Quân khu đạt hơn 21.512,6 triệu đồng. Công tác chăm sóc sức khỏe bộ đội được chú trọng, tỷ lệ quân số khỏe đạt 98,75%. Làm tốt công tác chuẩn bị phục vụ Bộ kiểm tra đơn vị vận tải “Chính quy, an toàn, hiệu quả”; triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “Văn hóa giao thông với bình yên sông nước giai đoạn 2012 – 2015” trong toàn Quân khu. Cùng với việc đẩy mạnh tăng gia sản xuất, các cơ quan, đơn vị còn tích cực thực hành tiết kiệm, với nhiều mô hình như “ gạo tiết kiệm”, “Tiết kiệm bản thân, để phần người khó” ,“Tiết kiệm chi tiêu hàng ngày”, “Quỹ đồng đội”, “Giúp nhau vượt khó”... qua đó, đã làm cho ý thức tiết kiệm được nâng lên, trở thành tính tự giác trong nhận thức và hành động của mọi cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng ngành Hậu cần vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang quân khu vững mạnh toàn diện.

          Thực hiện Quyết định 250/QĐ-BQP ngày 25 tháng 1 năm 2014 của Bộ Quốc phòng, ngày 11 tháng 4 năm 2014 Quân khu 4 tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Lữ đoàn vận tải thủy 873. Lữ đoàn 873, được trang bị có nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện lực lượng dự bị động viên, bảo đảm vận chuyển vật chất hậu cần, kỹ thuật, phương tiện, vũ khí trang bị, vật tư cho các đảo thuộc Quân khu 4 và các đảo xa bờ khi có nhiệm vụ; tổ chức đưa đón các đoàn cán bộ và nhân dân ra kiểm tra, thăm đảo; vận tải đường biển, đường sông và các dịch vụ cảng biển; sửa chữa tàu thuyền quân sự và các phương tiện thủy khác; phát triển du lịch biển, đảo khi có điều kiện; kiểm tra, kiểm soát và làm nòng cốt cho lực lượng dân quân tự vệ biển tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, sẵn sàng tìm kiếm cứu hộ cứu nạn khi có thiên tai bão lụt trên địa bàn Quân khu và vùng lân cận.

Giai đoạn 2010 – 2015, ngành Hậu cần Quân khu đã chăm lo xây dựng thế trận, tiềm lực Hậu cần trong khu vực phòng thủ, xây dựng các khu căn cứ hậu cần tạo nên thế trận hậu cần liên hoàn, vững chắc; tích cực, chủ động đẩy mạnh công tác tăng gia sản xuất, chăn nuôi với nhiều hình thức, phương pháp sáng tạo “biến suối cạn thành suối rau, ao thả cá”, “biến đất cằn sỏi đá thành khu tăng gia sản xuất, chăn nuôi liên hoàn” tạo ra những sản phẩm có giá trị đưa vào bữa ăn bộ đội. Tiến hành cải tạo, củng cố hệ thống nhà ăn, nhà bếp và trang bị dụng cụ cấp dưỡng kiểu dáng mới; lắp đặt đưa vào sử dụng bếp lò hơi cơ khí, bảo đảm cho 81% quân số toàn Quân khu ăn tại bếp (riêng đơn vị chủ lực đạt 100%  quân số). Tập trung cụ thể hóa các nội dung xây dựng đơn vị quân y “5 tốt” và “Chiến sỹ quân y làm theo lời Bác Hồ dạy” bằng những việc làm cụ thể như “3 xây”, “3 chống”, “3 không”, “5 nhất” nhằm chống sa sút về y đức, chống tụt hậu về y thuật, góp phần duy trì và giữ vững tỷ lệ quân số khỏe đạt 98,8%. Thực hiện có hiệu quả chủ trương xóa nhà cấp 4 xuống cấp nghiêm trọng giai đoạn 2014 - 2015, quy hoạch mặt bằng tổng thể doanh trại, hệ thống tắm nước nóng bằng lò hơi cơ khí và năng lượng mặt trời, xây dựng doanh trại ngày càng chính quy, xanh, sạch, đẹp, khang trang; công tác quản lý và sử dụng đất quốc phòng chặt chẽ, thống nhất hơn. Ngành xăng dầu đã tập trung đẩy mạnh quản lý, bảo quản, sử dụng xăng dầu, vật tư khí tài chặt chẽ, đúng mục đích. Tổ chức tiếp nhận, cấp phát xăng dầu đúng nhiệm vụ và hạn mức, thanh quyết toán sử dụng xăng dầu chặt chẽ, đúng quy định (Tiếp nhận, cấp phát: 17.235.000 lít xăng, 2.172.000 lít diezel; 1.058.172 kg mỡ). Ngành Vận tải đã tập trung thực hiện tốt công tác vận chuyển đầy đủ, kịp thời, an toàn cho các nhiệm vụ cả thường xuyên và đột xuất, các nhiệm vụ vận chuyển lớn như vận chuyển tân binh, vận chuyển vũ khí đạn, vận chuyển cho xây dựng các công trình, xây dựng các đảo, vận chuyển bộ độ tham gia phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai (Vận chuyển hàng hóa: 160.808 tấn; vận chuyển quân: 122.268 lượt người; sữa chữa 593 lượt phương tiện)

c) Giai đoạn từ năm 2015 đến nay

Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, từ năm 2015 đến nay, Ngành Hậu cần Quân khu đã tập trung nâng cao trình độ, khả năng đảm bảo hậu cần cho SSCĐ, xử lý kịp thời các tình huống, không để xẩy ra bất ngờ. Quan tâm đầu tư công tác bảo đảm hậu cần cho các lực lượng làm nhiệm vụ ở địa bàn trọng điểm, biên giới, hải đảo; các đơn vị đủ quân, đơn vị mới thành lập, chia tách; bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch hậu cần theo các phương án tác chiến; xây dựng kế hoạch bảo đảm quân y cho nhiệm vụ tác chiến biển đảo; luyện tập phương án bảo đảm quân y cho cấp cứu người do sự cố, thiên tai và bảo đảm trên biển...

Chú trọng đẩy mạnh công tác TGSX-CN; xây dựng mô hình TGCN tập trung tại ccHH của Quân khu bước đầu có hiệu quả; thực hiện tốt chủ trương tổ chức sản xuất theo mô hình 3 cấp đối với sư đoàn, 2 cấp đối với Trung, lữ đoàn và tương đương; cấp tiểu đoàn, đại đội và tương đương gắn với bếp ăn; cấp trung, lữ, sư đoàn tổ chức TGSX tập trung gắn với trạm xay xát, chế biến giết mổ; Bộ CHQS tỉnh, Ban CHQS huyện tổ chức TGSX tập trung trong ccHC, ccHP; tổ chức đột kích vào những nội dung có tính đột phá với việc tổ chức và tham gia các cuộc thi “Tiểu đoàn TGSX giỏi"; “Nhà ăn, nhà bếp chính quy- an toàn- chất lượng”; bảo đảm đủ 100% nhu cầu rau xanh và 87% thịt xô lọc, 48% cá.

 Tập trung vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bộ đội và nhân dân; nâng cao tinh thần trách nhiệm, quan điểm, thái độ phục vụ. Với những việc làm rất cụ thể như: “3 xây, 3 chống”; “3 không, 3 nên”, “5 nhất” nhằm chống sa sút về y đức, chống tụt hậu về kỹ thuật, góp phần duy trì và giữ vững tỉ lệ quân số khỏe đạt 98,8%. Công tác quản lý sức khoẻ cán bộ, khám sức khoẻ định kỳ, phúc tra sức khỏe, tiêm phòng AT cho tân binh được chú trọng và duy trì thành nề nếp. Bệnh viện Quân y 4 và Bệnh viện Quân y 268 thực hiện tự chủ về tài chính; hệ thống bệnh viện, bệnh xá tiếp tục được củng cố, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng ngày càng được nâng cấp, nhất là Bệnh viện Quân y 4 được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và nhiều trang thiết bị hiện đại, trong đó có một số trang thiết bị hiện đại nhất khu vực Bắc Trung bộ; tổ chức khám, cấp thuốc miễn phí cho gần 27.000 lượt đồng bào các dân tộc thiểu số, nhân dân các vùng căn cứ cách mạng, các đối tượng chính sách, đồng bào giáo dân và giúp đỡ nâng cấp, các cơ sở y tế của địa phương vùng sâu, vùng xa; thăm hỏi, tặng quà hơn 2000 lượt các cháu khuyết tật, bệnh hiểm nghèo, con liệt sỹ, các đối tượng chính sách…được cấp ủy chính quyền địa phương đánh giá cao, nhân dân tin yêu, quý mến.

Xây dựng và triển khai thực hiện quy chế lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác quản lý, sử dụng xăng dầu; quan tâm thực hiện tốt công tác xây dựng chính quy, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, bảo đảm đầy đủ, kịp thời xăng dầu cho nhiệm vụ thường xuyên, đột xuất và SSCĐ (Tiếp nhận, cấp phát: 21.610.000 lít xăng, 5.064.300 lít diezel, 1.449.695 kg mỡ). Nhiều đơn vị đã triển khai có hiệu quả phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tạo ra nhiều sáng kiến có giá trị thực tiễn giảm hao hụt và đảm bảo an toàn trong quá trình bảo quản và cấp phát. Động viên cán bộ, chiến sĩ, nhân viên tập trung thực hiện tốt các kế hoạch vận chuyển bảo đảm kịp thời, an toàn tuyệt đối về mọi mặt cho các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất; xây dựng ngành từng bước chính quy; tập trung huấn luyện chuyên ngành nâng cao trình độ, sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống (Vận chuyển hàng hóa: 168.481 tấn, vận chuyển quân: 133.756 lượt người, sửa chữa 392 lượt phương tiện)

Phát huy tốt nội lực, huy động sức mạnh của mọi cấp, mọi ngành, của địa phương, cùng với sự chỉ đạo nhạy bén, sáng tạo, kịp thời của cấp ủy, chỉ huy các cấp, huy động đông đảo cán bộ, chiến sĩ hưởng ứng tham gia trong việc đầu tư, xây dựng, cải tạo, sửa chữa nâng cấp doanh trại bảo đảm chất lượng. Công tác quản lý dự án đầu tư của các chủ đầu tư đã đi vào nề nếp, tạo nhiều chuyển biến tốt. Hướng vào tập trung giải quyết nơi ở, nơi làm việc, các khu vực vui chơi giải trí, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của bộ đội. Thực hiện tốt chủ trương xóa nhà cấp 4 hết niên hạn sử dụng, xuống cấp nặng trong quy hoạch; giải quyết dứt điểm 179 dự án tồn đóng trong xây dựng cơ bản, trị giá hơn 3.500 tỷ đồng; đảm bảo đủ nước sạch, hợp vệ sinh, đặc biệt đã bảo đảm 100% bộ đội được tắm nước nóng về mùa đông. (Xây dựng cơ bản: 1.036.390 m2, trị giá: 4.659 tỷ đồng; hợp thức đất quốc phòng: 1.768 ha). Công tác Doanh trại trong giai đoạn này đã tạo sự thay đổi vượt bậc về diện mạo, cảnh quan doanh trại của các cơ quan, đơn vị trong toàn Quân khu.

          Tháng 10 năm 2020, thiên tai, lũ lụt và sạt lở đất nghiêm trọng trên đại bàn Quân khu, nhất là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, gây thiệt hại lớn về người và tài sản (vùi lấp một phần doanh trại của Đoàn 337; 33 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, trong đó có đồng chí Thượng tá Bùi Phi Công - Phó Chủ nhiệm hậu cần Quân khu và đồng chí Đại tá Lê Văn Quế, Chủ nhiệm hậu cần của Đoàn 337). Trước tổn thất to lớn trên Ngành Hậu cần Quân khu 4 đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức, chính sách; chỉ huy điều hành chặt chẽ, phát huy được sức mạnh và sự nỗ lực của các cơ quan, đơn vị ngành hậu cần, nhanh chóng ổn định các mặt, tiếp tục thực hiện các kế hoạch, nhiệm vụ đã xác định, bảo đảm các mặt hậu cần cho LLVT Quân khu.

Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp, ngành Hậu cần đã chủ động tham mưu cho Ban chỉ đạo phòng chống Covid-19 và Thủ trưởng các cấp, nhất là Ban chỉ đạo và Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu, chỉ đạo cơ quan, đơn vị quán triệt đầy đủ hướng dẫn, chỉ thị các cấp, thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch Covid-19, rà soát kiện toàn, bổ sung lực lượng, phương tiện phòng chống dịch và các khu cách ly tập trung, truy vết quân nhân, người lao động trong đơn vị liên quan đến các ca bệnh theo thông báo của Bộ Y tế; tổ chức tiêm Vắc xin phòng chống Covid-19 cho các đối tượng bảo đảm an toàn: 5.437 liều, trong đó có 908 đối tượng tiêm liều thứ 2. Thực hiện tốt công tác tham mưu cho chính quyền địa phương các cấp, triển khai các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 và tổ chức cách ly 173.868 lượt công dân. Huy động, hỗ trợ vật chất, kinh phí phòng chống Covid-19 cho nước bạn Lào hơn 7 tỷ đồng, bảo đảm kịp thời, thiết thực, hiệu quả. Thành lập 1 đội phản ứng nhanh/BVQY4; 2 tổ cấp cứu chuyên khoa truyền nhiễm/BV4, 268; 2 tổ PCD cơ động/Đội YHDP; 21 tổ PCD của các đơn vị; rà soát, chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng triển khai Bệnh viện dã chiến truyền nhiễm số 2; xây dựng kho chứa vaccine ở Kho K55/CHC; tập trung phun khử trùng, tẩy độc: 538 ha; lấy mẫu xét nghiệm test nhanh kháng nguyên cho 6.529 lượt người; tiếp nhận, lắp đặt vận hành máy xét nghiệm RT-PCR và tiến hành xét nghiệm cho 798 lượt người; tiếp nhận 08 xe vận chuyển vaccine.

Đặc biệt, năm 2020 Ngành Hậu cần Quân khu đã có nhiều nỗ lực vươn lên mạnh mẽ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19; hoàn thành xuất sắc Đề tài cấp BQP "Phát triển lý luận bảo đảm hậu cần tác chiến phòng thủ quân khu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc" được Hội đồng nghiệm thu Bộ Quốc phòng đánh giá cao;

Với những thành tích nổi bật, giai đoạn 2015-2021, Ngành Hậu cần Quân khu đã có 151 tập thể, 264 cá nhân  được BQP, TCHC, Quân khu và các đơn vị khen thưởng. Năm 2016 Cục Hậu cần Quân khu được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì; Năm 2020, Cục Hậu cần được Thủ tướng Chính phủ tặng Cờ thi đua. Đây là thành tích, phần thường cao quý mà cán bộ, nhân viên, chiến sỹ Ngành Hậu cần Quân khu đã nỗ lực phấn đấu.

Nhìn lại chặng đường lịch sử 60 xây dựng, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và trưởng thành của ngành Hậu cần Quân khu, chúng ta hoàn toàn tự hào với những kết quả và thành tích đã đạt được. Đặc biệt là sự hy sinh cống hiến hết sức to lớn của tất cả các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ của ngành Hậu cần Quân khu qua các thời kỳ, đã không quản ngại gian khổ hy sinh, băng qua mưa bom, bão đạn, vượt qua muôn vàn khó khăn, tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, luôn hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Những thành và kết quả rất đáng tự hào của ngành Hậu cần Quân khu đã góp phần tiếp tục tô thắm thêm bản chất và truyền thống tố đẹp của Bộ đội Hậu cần, “Bộ đội Cụ Hồ” trên quê hương Bác Hồ kính yêu.

Những năm tới, trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Tranh chấp chủ quyền về biển đảo diễn biến ngày càng gay gắt, phức tạp. Trong nước, các thế lực thù địch tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và thực hiện “phi chính trị hóa” Quân đội ngày càng quyết liệt hơn. Địa bàn Quân khu, tình hình an ninh chính trị ổn định, kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng - an ninh không ngừng được củng cố và tăng cường, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, do tác động tiêu cực của xã hội, thiên tai, dịch bệnh, nhất là dịch Covid-19... đã và đang đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu công tác bảo đảm hậu cần đòi hỏi ngày càng cao. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Cục Hậu cần lần thứ XVIII đã xác định: Phấn đấu đến năm 2025, tham mưu, chỉ đạo hoàn thành cơ bản việc đầu tư xây dựng căn cứ hậu cần cấp tỉnh, từng bước quy hoạch, xây dựng căn cứ hậu cần cấp huyện; xây dựng căn cứ hậu cần Quân khu mô hình TGSX, chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. Bảo đảm 100% rau xanh chất lượng tốt, 85% nhu cầu thịt, 50% nhu cầu cá trở lên; giá trị lãi thu từ TGSX-CN và dịch vụ bình quân đạt và vượt từ 1,5-1,7 triệu đồng/người/năm. Quân số khỏe toàn Quân khu đạt 98,5% trở lên; phấn đấu đến năm 2025 xây dựng Bệnh viện Quân y 4 có một số ngành mũi nhọn và uy tín cao trong khu vực. Nâng cấp sân, đường nội bộ đạt trên 90%; cải tạo hệ thống điện hạ thế đạt 90% nhu cầu, 100% quân số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, phấn đấu 70% quân số được sử dụng nước sạch. Hoàn thành 100% chỉ tiêu công tác xăng dầu, vận tải. Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu trên, Đại hội đã xác định tập trung đột phá vào: Nâng cao chất lượng công tác tham mưu; huấn luyện, xây dựng chính quy ngành”. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ, nhân viên, chiến sĩ phải đoàn kết, gắn bó, phát huy sức mạnh tổng hợp và truyền thống 60 năm qua, nỗ lực phấn đấu xây dựng ngành Hậu cần Quân khu phát triển toàn diện; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn bảo đảm tốt công tác hậu cần cho LLVT Quân khu; đồng thời thực hiện tốt PTTĐ  “Ngành hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”; gắn với Nghị quyết của các cấp ủy đảng; nhất là NQ 623 của QUTW về công tác hậu cần năm 2020 và những năm tiếp theo, trọng tâm là bảo đảm tốt công tác hậu cần cho các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất, nhất là nhiệm vụ phòng chống thiên tại, dịch bệnh Covid-19; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới, với nhiều hình thức, cách làm sáng tạo, thiết thực, chất lượng, hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu vững chắc trong công tác bảo đảm hậu cần, góp phần hoàn thành nhiệm vụ quân sự quốc phòng của lực lượng vũ trang Quân khu, đáp ứng yêu cầu nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Phần thứ hai

TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP, BÀI HỌC KINH NGHIỆM

VÀ PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ MÀ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, QUÂN ĐỘI PHONG TẶNG CHO NGÀNH HẬU CẦN QUÂN KHU 4

Trải qua, 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sỹ, người lao động của ngành Hậu cần Quân khu đã không quản hy sinh gian khổ, tận tâm, tận lực cống hiến trí tuệ, mồ hôi công sức và cả máu xương xây đắp nên truyền thống “Cần kiệm, sáng tạo, tự lực tự cường, biết dựa vào dân, đoàn kết, quyết thắng”.

Với những chiến công và thành tích đạt được trong 60 năm qua,ngành Hậu cần Quân khu đã được Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu trao tặng nhiều phần thưởng cao quý; 17 tập thể, 12 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT Nhân dân; hàng trăm tập thể, hàng nghìn cá nhân được tặng thưởng Huân chương, Huy chương, ĐVQT, CSTĐ, Bằng khen, Giấy khen.

Từ thực tiễn xây dựng và bảo đảm hậu cần cho lực lượng vũ trang Quân khu chiến đấu, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và lao động sản xuất trong 60 năm qua, ngành Hậu cần Quân khu rút ra những bài học kinh nghiệm có tính tịch sử, đó là:

1. Quán triệt sâu sắc quan điểm chiến tranh nhân dân, hậu cần nhân dân, biết dựa vào dân; kết hợp chặt chẽ, đồng bộ hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, sức mạnh nền kinh tế tạo nên sức mạnh tổng hợp của hậu cần Quân khu

2. Phát huy tinh thần tự lực tự cường, chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn vượt qua gian khổ, xây dựng ngành hậu cần Quân khu vững mạnh về mọi mặt

3. Quan tâm chăm lo xây dựng thế trận hậu cần vững chắc trên từng địa phương, từng chiến trường và trong toàn Quân khu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ từng giai đoạn

4. Thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành hậu cần vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống

5. Phát huy tốt phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” và phongt rào thi đua từng ngành, góp phần xây dựng ngành Hậu cần Quân khu ngày càng vững mạnh.

6. Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch, vững mạnh; xây dựng mối quan hệ mật thiết với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương, thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế cao cả.

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Bình luận, góp ý (0)

Chưa có phản hồi

Bạn cần đăng nhập để bình luận

Xem nhiều
Liên kết Website
Tỷ giá

Quân khu - Quân chủng
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội