Ông ngoại của tôi
Ông Ngoại tôi, một người lính kiên cường, đã cầm súng ra chiến trường chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc trong những năm tháng khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Cũng như những người bạn đồng trang lứa, năm 1971, ông chính thức lên đường, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hành trang ông mang theo là niềm tin được đóng góp công sức giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. “Lúc ấy, đi bộ đội là một niềm tự hào của gia đình .” – ông vẫn thường kể với tôi như thế. Cuộc đời binh nghiệp của ông không chỉ là câu chuyện về lòng yêu nước sâu sắc mà còn là minh chứng cho những hy sinh lớn lao của thế hệ cha ông vì hòa bình, tự do của dân tộc.

Ông ngoại tôi sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đói nghèo, Tổ quốc bị giặc ngoại xâm chiếm đóng. Trong hoàn cảnh đói rách khổ cực, cuộc sống thuần nông vốn đã khó khăn lại càng thêm cơ cực khi chiến tranh xảy ra. Những năm tháng đói kém, áo không đủ mặc, cơm không có ăn, đất nước ngập trong khói lửa chiến tranh. Gia đình ông đông con, cuộc sống là thế nhưng ông vẫn vượt qua tất cả, vẫn nuôi trong mình khát khao được học hành và cống hiến. Dù điều kiện thiếu thốn, ông luôn cố gắng từng ngày, tiếp tục học hành qua các cấp học. Khi đất nước có chiến tranh, ông tạm gác lại gia đình, quê hương, bạn bè, trường lớp để lên đường cầm súng đánh giặc .
Ngày 3-1-1971, ông chính thức bước chân vào quân ngũ, kể từ đó ông khoác lên màu áo người lính, mang trong tim lời thề bảo vệ non sông đất nước. Rèn luyện suốt ngày đêm, kỉ luật nghiêm, vất vả trong thao trường đổ mồ hôi sương gió. Sáu tháng ông huấn luyện đã quen dần với người lính. Ngày 1-6-1971, ông lên đường vào Nam đánh giặc. Một tháng lăn lộn hành quân cùng đơn vị, vượt suối băng rừng Hà Tĩnh-Quảng Bình-Quãng Trị-Đường 9 nam Lào sau đó ông được điều chuyển vào Thừa Thiên Huế. Cuộc sống lúc này bốn bề rừng núi, cơm không no cùng với rau rừng chống chọi với đói khổ, nỗi nhớ nhà, nhớ tuổi ấu thơ lại hiện hữu trong tâm trí ông.
Lần đầu tiên ông ra mặt trận chiến đấu đó là ngày 15-2-1972 bom đạn ta vang dội núi rừng. Mỗi khi kể về thời chiến ông lại rơm rớm nước mắt vì nhớ những người đồng đội đã ngã xuống, ông nhớ lại hình ảnh đầu tiên là ta và địch giao tranh ác liệt. Lần đầu tiên trong cuộc đời ông làm là tìm kiếm và chôn cất tử sĩ. Có những người còn nguyên vẹn có người thể xác bom đánh tan tành phải lượm từng cánh tay, cánh chân thật ghê rợn. Tiếp đó sau hai ngày ông ra trận vào lúc 4 giờ sáng ngày 17-2 ông bị thương, đạn trúng vào chân, máu ra nhiều, đồng đội đưa ông về trạm cấp cứu Tiền phương. Ông được các bác sĩ mổ trong hầm giã chiến, sau 10 ngày vết thương lành ông trở về đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ.
Vào lúc 10h ngày 25-3-1972 ông bị địch bắn và bị thương nặng, máu ra nhiều khiến ông bị kiệt sức. Khoảng 30 phút sau, địch tràn xuống và ông đã bị bắt, chúng cho ông vào bao tải, cùng nhiều đồng đội khác sau đó máy bay trực thăng đưa ông về bệnh viện Huế của địch vừa điều trị vừa lấy cung. Do vết thương quá nặng, chỉ hai ngày sau, địch buộc phải cắt bỏ một phần chân của ông để giữ mạng sống. Ở Huế được khoảng 10 ngày chúng cho ông về Đà Nẵng, tại đây ông bị nhiễm trùng nên phải cắt lại chân. Ở Đà nẵng một tháng, chúng lại cho ông vào Sài Gòn. Một năm tù tội trong vòng vây địch. Tháng 3/ 1973 hiệp định đình chiếm có hiệu lực, ông được trao trả và chuyển ra Thanh Hóa để an dưỡng. Ông được đơn vị đoàn an dưỡng 595 Thanh Hóa nuôi dưỡng điều trị qua nhiều bệnh viện đến lúc sức khỏe hồi phục đơn vị hội đồng Giám Định Y Khoa xếp hạng thương tật 81% thương binh hạng ¼.
Mặc dù chiến tranh đã qua nhưng những gì mà nó để lại vẫn còn hiện hữu. Thời bé, mỗi khi bố mẹ dẫn chúng tôi về thăm ông tôi hay sờ vết sẹo lớn, hõm sâu bên chân phải của ông để nghịch vì thấy lạ. Lớn lên, chúng tôi mới biết, đó là vết thương do chiến tranh để lại , nhìn ông lòng tôi xúc động nghẹn ngào.

Không bằng lòng với số phận , sau khi xuất ngũ ông làm hồ sơ và thi đậu vào trường Nghiệp vụ Quản lý Kinh tế Trung Ương I. Sau 3 năm, ông tốt nghiệp cao đẳng. Ông được trường chuyển về công tác tại trạm 25 UBND tỉnh Nghệ Tĩnh, thành phố Vinh ngày nay. Đến tháng 11-1979, ông được điều động về Ủy ban Nhân dân huyện Đức Thọ, làm việc tại phòng Nông nghiệp. Năm 1989, ông chuyển về làm kế toán tại Công ty Giống cây trồng và vật nuôi, nay là Chi cục Bảo vệ Thực vật. Suốt gần 40 năm cống hiến, từ những năm tháng trong quân ngũ đến khi phục vụ trong các cơ quan nhà nước, ông luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Năm 2007, ông nghỉ hưu theo chế độ, khép lại một hành trình đầy tự hào. Hiện tại ông đang tham gia hội cựu chiến binh tại quê nhà xã Đức Thủy, nay là Lâm Trung Thủy, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Đời người 100 năm hoặc dài hơn thế nữa, cho đến giờ phút này ông tôi đã đi qua 3/4 thế kỷ. Quá khứ thời gian cứ trôi qua, cuộc đời một con người từng trải qua muôn vàn khó khăn vất vả nhiều lúc cận kề với cái chết. Chiến tranh đã lấy đi sức lực, tuổi trẻ của ông. Giờ đây, mỗi khi trái gió trở trời, vết thương ấy lại tái phát nhưng ông vẫn không hề than vãn, âm thầm chịu đựng, đó cũng là minh chứng cho sự kiên trung của người lính. Đã nhiều lần tôi từng hỏi ông, ông cảm nhận cuộc sống bây giờ như thế nào thì ông đều vui vẻ chia sẻ. “Gia đình ta cùng xã hội bước vào cuộc sống mới. Đảng và Nhà Nước vô cùng quan tâm đến những người như ông. Tuy vật chất chưa đủ đầy nhưng làm ấm lòng người cho cuộc sống tương lai”.
Nhìn lại chặng đường đã qua, ông là hiện thân của thế hệ những người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam – lực lượng vũ trang cách mạng mang sứ mệnh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Ông đã góp phần vào những chiến công vang dội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, để hôm nay, chúng ta được sống trong hòa bình và tự do.
Hôm nay, trời trong xanh, ánh sáng tương lai vẫn chiếu rọi. Dù cuộc sống có đổi thay, ông mãi mãi là ngọn đuốc soi đường, là người anh hùng thầm lặng trong trái tim của cả gia đình tôi và bao thế hệ con cháu. Với tôi, ông không chỉ là một người lính kiên trung mà còn là biểu tượng của lòng dũng cảm và sự hy sinh cao cả, một hình mẫu mà tôi luôn ngưỡng mộ và tự hào. Thế hệ trẻ chúng tôi may mắn được sống trong thời bình. Tôi sẽ cố gắng rèn luyện, học tập tốt để góp phần xây dựng quê hương, đất nước, xứng đáng với những gì mà cha ông chúng ta đã hy sinh.
Cháu không biết hòa bình giá bao nhiêu
Nhưng đó là máu xương ông cha đã đổ
Hôm nay và mai sau chúng cháu luôn nhớ
Quyết tâm luyện rèn để xây dựng tương lai
NGUYỄN PHƯƠNG TRÀ
Học sinh lớp 7A2, Trường THCS Lê Văn Thiêm, TP Hà Tĩnh
Bình luận, góp ý (0)
Bạn cần đăng nhập để bình luận