Đánh “giặc da cam”, hồi sinh A So
Nhiều người lớn mất đi khi tuổi đời còn ít… Nhiều đứa trẻ sinh ra bị dị tật… Nuôi được cái con, trồng được cái cây… bán chẳng ai mua, cho chẳng ai lấy… đó là tình cảnh một thuở của người dân sinh sống nơi thung lũng A So, huyện A Lưới, thành phố Huế. Vật lộn, mưu sinh trên vùng đất “thung lũng chết” do di chứng chất độc da cam đi ô xin trong chiến tranh để lại nặng nề, người dân kiệt sức, sợ hãi…
Ám ảnh A So
ASo – một cái tên nghe như tiếng gió hú vọng từ đại ngàn Trường Sơn – là một trong những thung lũng đầy ám ảnh nằm sâu của huyện A Lưới, thành phố Huế. Với những ai từng đến đây, hoặc chỉ cần lật lại trang sử về chiến tranh Việt Nam, A So hiện lên như một ký ức buốt lạnh giữa rừng xanh thăm thẳm. Trong chiến tranh, thung lũng A So từng là nơi đặt các căn cứ quân sự, sân bay dã chiến, là điểm nóng của bom đạn và chất độc da cam – thứ hóa chất đã gieo rắc di họa lâu dài lên đất, nước, cây cỏ và cả con người nơi đây. Ông Đào Văn Hiền, thôn Ka Vá, xã Đông Sơn, huyện A Lưới, thành phố Huế chia sẻ: “Ngày trước, chiến tranh còn biết đường mà tránh bom đạn. Chất độc da cam ở trong đất, trong nước không tránh được, sợ lắm”.
Người dân A Lưới vẫn truyền nhau những câu chuyện buốt lòng về những đứa trẻ sinh ra không lành lặn, những mảnh đời chìm trong lặng lẽ, giữa những cánh rừng không còn xanh như thuở nào. Theo đồng chí Nguyễn Văn Hải, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện A Lưới, thành phố Huế, toàn huyện A Lưới có hơn 2.800 người nhiễm chất độc da cam, riêng các xã Khu Kinh tế Quốc phòng A So đã có khoảng 700 người, trong đó nhiều nhất là xã Đông Sơn, với số lượng người nhiễm 125 người.

Đứng giữa A Lưới hôm nay, khó có thể tưởng tượng rằng nơi này từng là vùng “tử địa” của chiến tranh. Những bản làng của người Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu giờ đây đã có đường nhựa, điện sáng, trường học, trạm y tế... Tiếng khèn bè, nhịp điệu điệu múa tung tung da dá vẫn vang lên mỗi mùa lễ hội. Nhưng đâu đó, trong ánh mắt của những người già, trong dáng ngồi lặng lẽ bên bếp lửa, vẫn có điều gì đó ám ảnh – một ký ức không thể gọi tên. Đơn cử như gia đình anh Hồ Văn Hêng ở thôn Loah-Ta Vai, xã Đông Sơn - một trong số gia đình có người thân bị nhiễm chất độc da cam/đioxin ở xã Đông Sơn nơi thung lũng A So. Khổ đau, bất lực cứ bám riết, dai dẳng, với gia đình người đồng bào dân tộc Pa Cô này, khi có người vợ bị nhiễm chất độc da cam đi ô xin và những đứa con vừa sinh ra đã chết; những đứa con may mắn sống sót thì vô thức, quằn quại trong hình hài dị dạng, đau ốm, bệnh tật triền miên.
Dù đã hơn 50 năm trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc, nhiều tổ chức phi chính phủ, các đoàn y tế, các chương trình nhân đạo đã đến đây để giúp đỡ người dân cải thiện sức khỏe, môi trường và điều kiện sống, nhưng những di chứng vẫn còn rất nặng nề. Anh Lê Minh Lịch, thôn Tra Chaih, xã Đông Sơn, huyện A Lưới, thành phố Huế cho biết: “Đời sống của bà con nói chung thì cũng rất là khó khăn, cây cối lên không nổi. Cây, giống, con thì phát triển không tốt. Chẳng hạn như là chuối, là 1 số cây lương thực khác thì cũng không tốt được bởi vì chất độc da cam quá nhiều, vùng núi quá lớn”.

Theo đồng chí Trương Toàn Thắng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đông Sơn, huyện A Lưới, địa phương đã có 3 lần di giãn dân để phòng, tránh chất độc da cam/dioxin vào các năm 2001, 2003 và 2007. Người dân ở đây rất sợ ảnh hưởng của chất độc da cam/điôxin. Ba lần di giãn dân, cái đói, cái nghèo càng thêm chồng chất mà chất độc da cam/đioxin vẫn không buông tha, đồng bào các dân tộc Pa Cô, Pa Hi, Tà ôi, Cơ Tu nơi thung lũng A So kiệt sức và càng thêm sợ hãi... Đang lúc bà con tuyệt vọng, thì Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92, Quân khu 4 có mặt thực hiện nhiệm vụ xây dựng Khu Kinh tế - Quốc phòng A So, A Lưới, sát cánh cùng bà con từng bước vượt qua khó khăn, thử thách.
Đánh “giặc da cam”, hồi sinh A So
Ngay sau khi đạt chân thực hiện nhiệm vụ, trọng trách đánh “giặc da cam” hồi sinh A So đặt lên vai người lính “Bộ đội Cụ Hồ” Đoàn Kinh tế Quốc phòng (KT-QP) 92 với chồng chất khó khăn, thử thách. Cái khó khăn nhất là niềm tin của đồng bào đối với bộ đội. Hình ảnh người dưới xuôi lên không dám uống nước, không dám ăn cơm, ăn thịt, cá, rau quả… nơi thung lũng A So đã gieo vào lòng đồng bào sự nghi ngờ với ánh mắt hoài nghi. Bộ đội ở được bao lâu? Bộ đội làm gì để chống lại chất độc da cam/điôxin?. Theo Đại tá Lưu Đức Chinh, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Đoàn KT – QP 92, thực hiện nhiệm vụ xây dựng Khu KT – QP A So thuộc huyện A Lưới, thành phố Huế, đơn vị chủ trương đưa bộ đội đóng quân trong dân ở các vùng trọng điểm về chất độc da cam để cùng đồng bào phòng, tránh. Đội sản xuất 1 nhận trọng trách “cắm chốt” ở xã Đông Sơn, nơi được ví như “rốn” chất độc da cam/điôxin của “thung lũng chết” A So.
Cùng với đó, Đoàn KT – QP 92 dồn sức hồi sinh Đông Sơn, với phương châm hành động là bộ đội phải bám trụ lâu dài, giúp Nhân dân hiệu quả là mệnh lệnh, phương châm hành động để đồng bào tin tưởng, ủng hộ, sát cánh cùng bộ đội đánh “giặc da cam”. Dồn sức cùng Đông Sơn, cán bộ, nhân viên Đoàn KT – QP 92 đi tìm nguồn nước trong đại ngàn Trường Sơn, tiếp giáp với nước bạn Lào, đưa nguồn nước sạch về từng nhà cho đồng bào sử dụng; dẫn nước về những mảnh ruộng lúa nước, nơi chăn thả gia súc, gia cầm… thay thế nguồn nước tại chỗ. Có nước sạch, bộ đội giúp đồng bào cải tạo đất, xây dựng các mô hình kinh tế để đồng bào làm theo…
Đồng chí Trung tá QNCN Nguyễn Việt Hoàn, Nhân viên Đoàn KT – QP 92, một trong những người lính đầu tiên cùng đơn vị đặt chân đến Khu KT – QP A So cho biết: “Hàng ngày, chúng tôi uống cái nước, ăn hạt gạo, cây rau, cái quả, thịt, cá nuôi trồng trên đất Đông Sơn. Nhà nào chúng tôi cũng đến trò chuyện, thức khuya bên bếp lửa; nhà có người bị di chứng chất độc da cam/điôxin, đơn vị đến động viên, chăm sóc… Dần dần đồng bào tin bộ đội trụ vững nơi “thung lũng chết” A So”.
Đồng bào tin bộ đội, nhưng nỗi sợ hãi ảnh hưởng di chứng của chất độc da cam/điôxin vẫn đeo bám, nên có nhiều người chưa yên tâm sản xuất, làm ăn. Thời điểm đó, phần lớn thôn bản ở xã Đông Sơn đều trắng đảng viên; số lượng đảng viên là người đồng bào tại chỗ, chỉ có vài ba người… nên việc tuyên truyền vận động bà con hết sức khó khăn. Thực hiện hành trình xây dựng Đảng ở Đông Sơn, Đoàn KT – QP 92 đề xuất, phối hợp với cấp ủy Đảng địa phương mạnh dạn lựa chọn những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trong Quân đội, hoặc đang tham gia lực lượng dân quân trong gia đình có người thân bị di chứng chất độc da cam tạo nguồn phát triển Đảng viên.
Gia đình ông Đoàn Văn Hiền, người dân tộc Tà Ôi, ở thôn Ka Vá, xã Đông Sơn có nhiều người bị di chứng chất độc da cam/điôxin. Ông Hiền may mắn là người khỏe mạnh và nhập ngũ vào Quân đội. Một thời gian dài, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về, ông Hiền vất vả làm việc ngày đêm để nuôi sống gia đình, nhưng cuộc sống vẫn hết sức khó khăn. Hàng tháng, cán bộ, nhân viên, TTTTN Đoàn KT – QP 92 tiết kiệm, dành dụm chi tiêu hỗ trợ gia đình ông lương thực, thực phẩm, thuốc y tế; mua cây giống, con giống, hướng dẫn, giúp đỡ gia đình ông Hiến chăn nuôi, trồng trọt… Quá trình vừa giúp đỡ gia đình, cán bộ, chiến sĩ Đoàn KT – QP 92 vận động ông Hiền vào Đảng… Ngày cũng như đêm, lúc nào gia đình cần bộ đội đều có mặt giúp đỡ gia đình ông Hiền. Gia đình xem bộ đội như những người con trong nhà và ông Hiền đồng ý vào Đảng.
Ông Đoàn Văn Hiền nói: “Lo sợ bị ảnh hưởng của chất độc da cam nên bà con nay đây mai đó, cuộc sống hết sức khó khăn. Miềng muốn giúp gia đình, giúp bà con nên quyết tâm phấn đấu vào Đảng. Cùng với đó, Đoàn KT – QP 92 thường xuyên hướng dẫn, giúp đỡ gia đình tôi làm các mô hình phát triển kinh tế để bà con dân bản học tập, làm theo; từ đó đời sống bà con từng bước được nâng lên”. Trò chuyện với chúng tôi, ông Pa Tả Liêng, thôn Ka Vá, xã Đông Sơn, huyện A Lưới chia sẻ: Miềng tin lời Đảng viên Đoàn Văn Hiền, không còn sợ cái chất độc da cam như trước nữa”.
Cũng như gia đình ông Đoàn Văn Hiền, gia đình anh Lê Minh Lịch, người dân tộc Cơ Tu ở thôn Tru Trai, xã Đông Sơn có nhiều người thân bị di chứng chất độc da cam. Anh Lịch là dân quân xã, được cán bộ, nhân viên Đoàn KT – QP 92 giúp đỡ, vận động và kết nạp vào Đảng. Cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ của đơn vị và sự gương mẫu, chịu khó, gia đình anh đã trở thành kiểu mẫu về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo nơi thung lũng A So. “Miềng nói được, làm được thì bà con mới tin. Miềng vừa làm vừa giúp đỡ bà con phát triển kinh tế”.
Những đảng viên vượt qua ám ảnh, sợ hãi của di chứng chất độc da cam/điôxin, nói được làm được, nên đồng bào tin tưởng, động viên con em vào Đảng. Từ sự động viên của gia đình, chị Hồ Thị Zin, người dân tộc Tà Ôi đã tích cực tham gia các hoạt động ở địa phương và được kết nạp vào Đảng; hiện nay Chị Hồ Thị Zin là Bí thư chi bộ thôn Loah – Ta Vai, xã Đông Sơn… Từ đó, ở Đông Sơn ngày càng có nhiều người trẻ tuổi phấn đấu vào Đảng. Hiệu quả và cách làm ở Đông Sơn được lan tỏa, nhân rộng trong Khu Kinh tế - Quốc phòng A So, A Lưới.
Đồng chí Lê Thanh Tường, Bí thư Đảng ủy xã Đông Sơn cho biết: “Đến nay, Đảng bộ xã Đông Sơn có 8 chi bộ trực thuộc và 140 đảng viên. Việc phát huy vai trò tính xung phong đi đầu của đảng viên, đặc biệt là trong phát triển kinh tế giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới là rất quan trọng. Vừa qua, nhiều mô hình, nhiều cá nhân đảng viên, chi bộ đã mạnh dạn phát triển kinh tế, áp dụng khoa học công nghệ vào chăn nuôi, phát triển rừng để đẩy mạnh kinh tế hộ gia đình, đó là nhưng mô hình để bà con còn khó khăn học tập noi theo”.
Có chi bộ đảng, đảng viên, đồng bào các dân tộc nơi thung lũng A So đã không gục ngã; nỗi ám ảnh, sợ hãi dàn nhường chỗ cho sự lạc quan về sự hồi sinh, bình yên của vùng đất này. Bà con luôn mong mỏi một ngày “Thung lũng chết” sẽ được tẩy độc và hồi sinh để con cháu đời sau thoát khỏi bệnh tật, được hạnh phúc và có cuộc sống bình thường như mọi người. Để giúp nhân dân ổn định cuộc sống, giảm thiểu những tác động do chất độc hóa học, dự án xử lý đất nhiễm chất độc đi-ô-xin tại sân bay A So được giao cho Bộ Tư lệnh Hóa học thực hiện từ đầu năm 2020, kết quả khảo sát xác định được khu vực ô nhiễm tại sân bay A So với diện tích ô nhiễm ước tính khoảng 5 héc ta, chiều sâu ô nhiễm trung bình 0.7 mét tổng khối lượng đất ô nhiễm cần xử lý là 35.000 mét khối, trong đó có khoảng 6.600 mét khối đất nhiễm có nồng độ ô nhiễm trên 200 ppt, mức độ ô nhiễm rất nặng.
Để đẩy nhanh tiến độ xử lý đất nhiễm điôxin tại sân bay A So, A Lưới, Bộ Tư lệnh Hóa học đã sử dụng áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó đơn vị đã tăng cường lực lượng cán bộ, chiến sĩ cũng như cử các đồng chí có kinh nghiệm đã thực hiện nhiều dự án tương tự để tham gia vào thực hiện dự án. Các lực lượng phương tiện thay ca, đổi kíp làm cả ngày lẫn đêm, chuẩn bị tốt các phương tiện che chắn để thi công bất cứ thời tiết nắng mưa.
Đồng chí Thiếu tá Nguyễn Phương Minh, Phó Trưởng phòng Sinh học, Viện hóa học Môi trường Quân sự, Binh chủng Hóa học cho biết: “Xử lý đất nhiễm điôxin ở sân bay A So thì chúng tôi kết hợp hai phương pháp xử lý. Thứ nhất là xử lý bằng phương pháp chôn lấp cô lập tích cực và phương pháp thứ hai là phương pháp sinh học để xử lý đất nhiễm. Ưu điểm là phương pháp xử lý sinh học vì xử lý được triệt để nồng độ điôxin ở trong đất, phục hồi môi trường tốt hơn so với các phương pháp khác”.

Sau 3 năm nỗ lực cố gắng của cán bộ, chiến sĩ Binh chủng Hóa học, đến tháng 10 năm 2023, đơn vị đã xử lý 5 luống đất nhiễm chất độc đi-ô-xin bằng phương pháp chôn lấp cô lập và xử lý xong 1 luống bằng phương pháp phân hủy sinh học. Tổng khối lượng 38.718 mét khối đất nhiễm trong đó xử lý sinh học 6.500 mét khối, xử lý chôn lấp cô lập 32.218 mét khối, tổng diện tích 9,35 ha. Dự án xử lý đất nhiễm đi-ô-xin hoàn thành là cơ hội mới cho cuộc sống bà con Nhân dân nơi đây cũng như phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh của địa phương sẽ được mở ra. Hơn 30 năm sống cùng tử thần, niềm mong mỏi của người dân nơi thung lũng A So cuối cùng cũng thành hiện thực…
Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh: “Sau 3 năm chúng ta nỗ lực cố gắng vượt qua cả đại dịch đã hoàn thành toàn bộ cái xử lý đất nhiễm là điôxin tại khu vực sân bay A So, trả lại đất sạch; bà con nhân dân được hưởng không khí trong lành; phát triển cây trồng vật nuôi, đưa vùng căn cứ cách mạng, vùng nghèo khó của A Lưới ngày xưa ngày càng phát triển bền vững, đi lên cùng với thành phố Huế và cả nước".
Sự chung sức, đồng lòng, bền gan, vững chí của Bộ đội Cụ Hồ, của các đảng viên và tinh thần không chịu khuất phục, không bị gục ngã của đồng bào nơi đây đã làm nên kỳ tích. Một vùng đất không có cây gì có thể sống nổi thì nay gần 100% số hộ dân nơi đây đã trồng rừng kinh tế, phát triển nông nghiệp bền vững. Đây cũng là hành trình đặc biệt quan trọng để huyện A Lưới thoát nghèo, sự sống ở “Thung lũng chết” A So đã trở lại và hồi sinh.
Bài, ảnh: MINH QUÂN - MINH THƯ
Bình luận, góp ý (0)
Bạn cần đăng nhập để bình luận