A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đặc điểm, địa hình Quân khu 4

Quân khu 4 nằm trên dải đất miền Trung, bao gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, với 26 dân tộc anh em cùng sinh sống. Địa hình của Quân khu đa dạng, là loại địa hình rừng núi, trung du, đồng bằng xen kẽ và bờ biển, có dãy Trường Sơn hùng vĩ. Nơi hẹp nhất là khu vực Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình có độ dốc lớn. Từ Quan Hóa, Thanh Hóa kéo dài về phía Nam, tỉnh Thừa Thiên  Huế địa hình có thế thiên hiểm, tạo một vành đai có ý nghĩa chiến lược về quân sự và kinh tế.

Lực lượng vũ trang Quân khu 4 vững bước dưới quân kỳ quyết thắng.

 

Một số mốc thời gian

- Ngày 15/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Thiết Hùng làm Khu trưởng; đồng chí Hồ Tùng Mậu, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu làm Chính trị viên cùng với Xứ uỷ Trung kỳ thành lập Chiến khu 4 gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Ngày 15/10 trở thành ngày truyền thống của LLVT Quân khu 4.

- Ngày 25/01/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh tổ chức các Liên khu; Chiến khu 4 đổi thành Liên khu 4.

- Ngày 24/4/1955, Liên khu ủy khu 4 bàn giao cho Liên khu ủy Khu 5 lãnh đạo, chỉ đạo 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.

- Ngày 3/6/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh Ký Sắc lệnh thành lập Quân khu 4; tỉnh đội Thanh Hóa được điều về Quân khu Hữu Ngạn.

- Ngày 6/4/1966, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân khu Trị Thiên.

- Ngày 6/2/1976, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định hợp nhất Quân khu 4 và Quân khu Trị Thiên thành Quân khu 4.

- Ngày 18/4/1976, Tỉnh đội Thanh Hóa được điều chuyển trở lại Quân khu 4.

Lực lượng vũ trang Quân khu 4 ra đời trên dải đất “Địa linh, nhân kiệt”, ngay từ đầu đã đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

Dải đất “Địa linh, nhân kiệt”, địa bàn chiến lược của cả nước

- Đây là một địa bàn hiểm yếu, kéo dài từ Tam Điệp nơi Hoàng đế Quang Trung đã hội quân để đánh thắng 20 vạn quân Thanh đến Hải Vân; địa thế dài và hẹp dần về phía Nam, nơi hẹp nhất chỉ có 50 km, địa hình phức tạp, núi non hiểm trở. Cả 6 tỉnh đều có biên giới trên bộ và biển, với tổng chiều dài 1.227,8 km đường biên giới trên bộ và 722 km bờ biển. Đây là địa bàn rất dễ chia cắt chiến lược trong các cuộc chiến tranh.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây đã từng bị chia cắt, điển hình là 2 cuộc chia cắt lịch sử: Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, lấy sông Gianh làm giới tuyến; giai đoạn 1954 - 1975 khi đế quốc Mỹ xâm lược, đất nước tạm thời chia làm 2 miền và giới tuyến tạm thời là Vĩ tuyến 17. Chính những yếu tố tự nhiên này làm cho địa bàn Khu 4 qua các thời kỳ luôn là địa bàn chiến lược quan trọng hiểm yếu của cả nước.

- Từ xa xưa dải đất Khu 4 đã từng được xem là phên dậu của các triều đại phong kiến Việt Nam, là nơi phát tích của các cuộc khởi nghĩa, các phong trào cứu nước của cha ông ta xưa khi tổ quốc bị rơi vào tay quân xâm lược. Đây là dải đất địa linh nhân kiệt. Thời nào, cũng có những anh hùng hào kiệt:

+ Triệu Thị Trinh cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt chống quân Ngô thế kỷ thứ 3, Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) đánh quân Đường, Lê Lợi tụ nghĩa đánh giặc Minh…

+ Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở tất cả các địa phương trên địa bàn Quân khu, tiêu biểu như: Phong trào Đông Du của Cụ Phan Bội Châu, các cuộc khởi nghĩa của Lê Trực (Quảng Bình), Trần Tấn, Đặng Như Mai (Nghệ An), Đinh Công Tráng (Thanh Hoá) và Phong trào Cần Vương của Cụ Phan Đình Phùng tại vùng núi Hương Khê/ Hà Tĩnh….

- Địa bàn Khu 4 còn là nơi sinh ra những danh nhân văn hóa nổi tiếng của dân tộc và thế giới: Đại thi hào Nguyên Du, La sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Bà chúa thơ nôm Hồ xuân Hương…

- Đặc biệt nơi đây đã sinh ra nhiều lãnh tụ tiền bối của cách mạng Việt Nam, trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta và Đảng ta, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Trần Phú. Các tổng Bí thư Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Lê Khả Phiêu...

- Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý đã tạo nên truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc và ý chí kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của con người nơi đây. Sau khi có Đảng lãnh đạo nó đã được nâng lên một tầm cao mới, yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với lý tưởng xây dựng một chế độ xã hội mới tươi đẹp, chế độ xã hội chủ nghĩa. Địa bàn Quân khu 4 trở thành một trong những cái nôi của cách mạng Việt Nam. Nhân dân một lòng, một dạ tin vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Lực lượng vũ trang Quân khu vinh dự được kế thừa truyền thống quý báu đó của quê hương anh hùng, quật khởi, địa linh nhân kiệt.

Là một bộ phận của LLVT cách mạng, LLVT Quân khu 4 ra đời là yêu cầu tất yếu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác xít Lê Nin chân chính, có tiền thân từ các Đội Tự vệ đỏ, từng bước trưởng thành và lớn mạnh:

- Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã quyết định con đường cách mạng Việt Nam là con đường bạo lực và tất yếu phải tổ chức LLVT cách mạng.

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với cả nước, phong trào của quần chúng ở các địa phương Khu 4 diễn ra mạnh mẽ mà đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh, theo đó là sự ra đời của các Đội Tự vệ đỏ, đây được xem là tiền thân của LLVT. Cùng với sự phát triển của cách mạng, lực lượng vũ trang đã từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Sau Cách mạng Tháng Tám các tỉnh Khu Bốn đã tổ chức ra chi đội giải phóng quân, tiếp đến là sự ra đời các trung đoàn; sau đó hình thành các sư đoàn chủ lực và phát triển như ngày nay.

- Trong quá trình xây dựng chiến đấu, trưởng thành, do yêu cầu nhiệm vụ, lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên trực thuộc Quân khu 5 rồi thành Quân khu Trị Thiên; lực lượng vũ trang Thanh Hóa một thời thuộc Quân khu Tả Ngạn. Nhưng bất luận ở đâu thì những chiến công của lực lượng vũ trang tỉnh Trị -Thiên, tỉnh Thanh Hóa đều góp phần tô thắm truyền thống LLVT Quân khu 4, nó nằm trong chỉnh thể thống nhất truyền thống LLVT Quân khu 4.

- Những đặc điểm địa lý, lịch sử địa bàn chi phối hun đúc truyền thống LLVT Quân khu 4. Trong đó sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định, đặc điểm địa bàn làm nên nét riêng của LLVT Quân khu 4.

Khẩu đội 1, Đại đội 104, Trung đoàn Phòng không 210 đã chiến đấu 147 ngày đêm bảo vệ giao thông ngã ba Đồng Lộc năm 1965. (Ảnh: Tư liệu)

 

Mảnh đất qua 2 cuộc kháng chiến: vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương; nơi đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch, quân và dân Khu 4 kiên trung lập nhiều chiến công oanh liệt

a) Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Khu 4 vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương; quân, dân Khu 4 vừa chiến đấu giỏi, vừa sản xuất giỏi chi viện đắc lực sức người, sức của cho các chiến trường:

- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp:

+ Ngay sau khi giặc Pháp gây hấn ở Nam Bộ, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Bác Hồ, phong trào ủng hộ Nam Bộ của Khu 4 đã diễn ra sôi nổi; các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia giết giặc; Chiến khu đã cử 5 đại đội nam tiến; trên địa bàn Chiến khu, quân dân ta đã nhất loạt tiến công quân Pháp và giành thắng lợi, nhất là tại Vinh (Nghệ An) và Thừa Thiên Huế.

+ Năm 1947, thực dân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng, từ đây hình thành 2 vùng: 3 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng tự do, là hậu phương, là căn cứ địa của cách mạng; Bình Trị - Thiên trong vùng tạm chiếm, là tiền tuyến của Chiến khu.

Lực lượng vũ trang từng bước củng cố và phát triển, cùng nhân dân đấu tranh tiêu diệt địch, giải phóng quê hương, mở nhiều chiến dịch và giành thắng lợi quan trọng, tạo cục diện có lợi cho thắng lợi quyết định của cả nước.

Ở hậu phương, vừa đấu tranh chống địch phá hoại vùng tự do, xây dựng quê hương ngày càng vững mạnh, trở thành căn cứ địa vững chắc thứ 2 của cả nước sau Việt Bắc; đồng thời chi viện đắc lực sức người, sức của cho các chiến trường, đặc biệt là trong chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân ta.

- Trong chống Mỹ:

 + Sau Hiệp định Giơnevơ đất nước chia thành 2 miền, Khu Bốn cũng bị chia làm 2. Từ Vĩnh Linh trở ra là hậu phương trực tiếp của tuyền tuyến lớn  miền Nam, đồng thời cũng là tuyến đầu của miền Bắc XHCN. Quảng Trị, Thừa Thiên là chiến trường. nơi đụng đầu lịch sử giữa ta và địch.

+ Trong cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc ta chống đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân Khu 4 đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lập được nhiều chiến công xuất sắc, nổi bật là:

* Với tinh thần tất cả vì tiền tuyến, Khu 4 hăng hái lao động sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh, huy động sức người, sức của cho các chiến trường.

 Quân khu 4 là nơi ra đời nhiều phong trào cách mạng, nhiều khẩu hiệu hành động trở thành phương châm của cả nước: “Gió đại phong, cờ 3 nhất”, “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Nhường nhà để hàng, nhường làng để xe”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”; bảo đảm thông suốt huyết mạch giao thông để hậu phương lớn Miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn Miền Nam.

* Quân và dân Khu 4 anh dũng chiến đấu đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Đầu tháng 8/1964, đế quốc Mỹ dựng lên cái gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ và leo thang bắn phá Miền Bắc (05/8/1964), quân và dân Vinh - Bến Thuỷ (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa), cảng Gianh (Quảng Bình) đã anh dũng giáng trả và bắn rơi máy bay Mỹ ngay trận đầu.

Trong các cuộc chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ đã dội bom xuống 90% số thôn, xã từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh; quân, dân Khu 4 bắn rơi 2.183 máy bay các loại (34 máy bay B-52, 5 máy bay F-111) bằng hơn 1/2 tổng số máy bay của đế quốc Mỹ bị bắn rơi, 258 tàu chiến, bảo về vững chắc thành quả xây dựng CNXH và hành lang vận chuyển chiến lược chi vện chiến trường miền Nam và Lào, Campuchia.

* Quân dân Quảng Trị - Thừa Thiên Huế trung dũng,kiên cường, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Trong hoàn cảnh Mỹ nguỵ khủng bố hết sức tàn bạo, quân và dân Quảng trị, Thừa Thiên Huế vẫn ngoan cường bám trụ củng cố và xây dựng lực lượng, tấn công địch bằng cả 3 mũi giáp công, trên 3 vùng chiến lược. 10 năm đầu là thời kỳ chuyển thế tấn công, giữ gìn lực lượng. Tiếp theo đó LLVT đã cùng nhân dân chiến đấu dũng cảm, giành thắng lợi trong các chiến dịch hè thu 1966, Đường 9 - Khe Sanh 1967; đặc biệt là trong cuộc tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, thành phố Huế trở thành chiến trường xuất sắc nhất và được tặng 8 chữ vàng “Tiến công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”

Sau những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, ngày 13/02/1972, thực hiện quyết định của Quân uỷ Trung ương, quân và dân ta đã giành thắng lợi ở nhiều nơi, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị vào ngày 02/5/1972. Mùa Xuân năm 1975, phối hợp với các chiến trường, quân và dân ta càng đánh, càng thắng lớn, đến ngày 26 tháng 3 năm 1975 tỉnh Thừa Thiên Huế được giải phóng. Những thắng lợi đó của quân và dân Khu 4 đã góp phần giải phòng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước.

b) Mảnh đất Khu 4 là mảnh đất của một thời máu lửa, gắn với những chiến công oanh liệt, đi vào lịch sử dân tộc như những trang chói lọi nhất về trí thông minh, lòng dũng cảm, nghị lực phi thường của quân và dân nơi đây.

- Qua 2 cuộc kháng chiến, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đây là chiến trường ác liệt nhất của cả nước, kể cả trên chiến trường Trị Thiên hay trên miền Bắc XHCN từ Vĩnh Linh đến Thanh Hóa.

+ Quảng Trị với 81 ngày đêm, Thành Cổ, Bến Hải, Cửa Tùng (Quảng Trị); Hàm Rồng (Thanh Hóa); Truông Bồn (Nghệ An); Ngã Ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh); Cảng Gianh (Quảng Bình), đây thực sự là những điểm lửa trong những năm đánh Mỹ.

+ Kẻ thù dội xuống đây nhiều bom đạn chỉ tính riêng Thành Cổ Quảng Trị trong vòng chưa đầy 2 tháng (từ 27/7 - 16/9/1972) Mỹ - ngụy đã dội xuống nơi đây 32.800 tấn bom, 733.528 quả đạn pháo.

+ Đây là nơi mở đầu cho nhiều học thuyết xâm lược của Mỹ: Hàng rào điện tử Mắcnamara; nơi mở đầu cuộc xâm lược bằng không quân và hải quân của Mỹ có 4 điểm thì Khu Bốn 3 điểm: Vinh - Bến Thủy (Nghệ An); Cảng Gianh (Quảng Bình); Lạch Trường (Thanh Hóa); Bãi Cháy (Quảng Ninh).

+ Người dân Khu 4 chịu nhiều đau thương mất mát, trên địa bàn Quân khu có 166.446 liệt sỹ hy sinh các chiến trường.

+ Đây không chỉ địa bàn chịu nhiều đau thương mất mát, ác liệt trong chiến tranh mà còn chịu những hậu quả hết sức nặng nề. Sau chiến tranh quân và dân Quân khu 4 phải xây dựng lại quê hương từ đống đổ nát, hoang tàn, nhiều di chứng chiến tranh còn đeo đẳng mãi cho tới hôm nay.

Thanh niên xung phong mở đường tại mặt trận Trị Thiên. Ảnh: Tư liệu

 

- Nhưng từ đau thương mất mát ấy, nhân dân và LLVT Quân khu 4 từ trong máu lửa vẫn kiên trung vững vàng trong tư thế hiên ngang, trong tư thế của người chiến thắng, nổi bật:

+ Cô gái sông hương “Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường; Khôn ngoan dàn trận khắp phố phường”

+ Mẹ Suốt “Một tay lái chiếc đò ngang” đưa quân dưới làn bom đạn địch.

+ Địa đạo Vĩnh Mốc, điển hình trí thông minh, lòng dũng cảm, nghị lực phi thường của người Khu 4, cả làng 82 gia đình với 300 con người kiên trì đào sâu vào lòng đất 1 địa đạo dài 1.701 m; càng phi thường hơn khi các thế hệ bám trụ sống và chiến đấu, học tập ở đây.

+ Gương chiến đấu dũng cảm của các nữ pháo thủ Ngư Thủy, các cụ dân quân Hoằng Trường…

+ Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ở Thừa Thiên Huế, cách mạng vào thời điểm vô cùng khó khăn, nhiều cơ sở Đảng bị khủng bố trắng (Hương Thủy từ 170 đảng viên chỉ còn 30, Phú Vang 193 đảng viên chỉ còn 23…) nhưng quân và dân ta vẫn sáng lên một niềm tin “Mất đất chưa phải mất nước. Chúng ta nhất định thắng”.

- Trong các cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc, nơi đây được ghi nhận bởi những chiến công oanh liệt, đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước như những mốc son chói lọi.

Cụ thể: Đường 9 - Khe Sanh, Huế, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Vinh - Bến Thủy, Nam Ngạn Hàm Rồng, Lạch Trường (Thanh Hóa), Sông Gianh (Quảng Bình) là những địa danh trận đầu đánh thắng Không quân Mỹ.

PV (Tổng hợp)


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Bình luận, góp ý (0)

Chưa có phản hồi

Bạn cần đăng nhập để bình luận

Tin liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Xem nhiều
Liên kết Website
Tỷ giá

Quân khu - Quân chủng
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội