A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Tình đồng hương trên chốt canh trời

Không khí sôi nổi những ngày đầu ra quân huấn luyện năm 2020 từ miền biên giới đến hải đảo xa xôi lại làm trỗi dậy trong tôi ký ức về chuyến đi Trường Sa năm nào. Không chỉ cơ duyên với Trường Sa mà còn cơ duyên với những người lính đang làm nhiệm vụ canh trời ở Sư đoàn 377, Quân chủng Phòng không - Không quân.

Chiến sĩ đảo Núi Le, quần đảo Trường Sa nêu cao cảnh giác bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Đó là một sáng cuối năm mưa giăng trắng trời. Vừa từ Trường Sa trở về sau chuyến chuyển quà Tết tặng lính đảo, đang ở khu vực lễ tân khách sạn Trường Sa, tôi giật mình bởi tiếng gọi:

- Anh Hùng! Anh Hùng K50 phải không?

Ngoảnh lại, tôi nhận ra cậu em học sau mình hai khóa:

- Ai như là chú Đồng? Đại úy rồi cơ à? Oách phết nhỉ.

Em nó quê ở Thạch Hà, Hà Tĩnh, học chuyên ngành pháo phòng không, sau chuyển loại cán bộ chính trị, giờ đang làm Chính trị viên đại đội trực thuộc Sư đoàn, đóng quân ngay phía sau khách sạn Trường Sa, hồi học ở Sơn Tây hai anh em khá thân thiết. Trước chuyến đi biết chú nó, nhiều bạn bè đồng khóa và nhiều đồng hương Hà Tĩnh cũng đang công tác ở Cam Ranh nhưng không có số điện thoại đành chịu.

- Hôm nay em sẽ dẫn anh đi thăm lại “cố nhân” đang công tác ở đây. Tuy là lính pháo nhưng nay chuyển loại chính trị nên ra đa hay tên lửa gì em cũng kinh qua hết.

Chúng tôi rời Sở chỉ huy sư đoàn để lên trạm ra đa trên Đồi RaDa. Theo lời Đồng kể thì ngọn đồi này có tên, nhưng có lẽ do bảo đảm bí mật quân sự hay vì ngọn đồi đặt ra đa nên gọi thế lâu thành quen. Xe chúng tôi xuyên mưa mà đi. Tiết trời Cam Ranh dịp này se se lạnh, hao hao giống tiết trời mùa Xuân đất Bắc. Vượt cầu Long Hổ, nhìn qua kính xe, ảo mờ trong những đám mây mưa sũng nước đang sà xuống đỉnh đồi là thấp thoáng những dàn ăng ten ra đa đang từ từ quay, tung cánh sóng kiểm soát bầu trời.

Trạm ra đa trên điểm chốt canh trời Cam Ranh

Những ca từ trong ca khúc “Chiến sĩ ra đa trên điểm chốt biên thùy” của nhạc sỹ Thuận Yến, ca khúc được xem như “ra đa ca” mà tôi được nghe đồng đội ở học viện hát nhiều nay lại hiện về trong tôi:

Chúng tôi lên đây mây trắng thổi qua đầu

Trời tháng Chạp tưởng chừng như với được

Ở nơi này điểm cao hai ngàn thước

Nghe gió về hun hút phía rừng sâu.

Đang miên man suy nghĩ, Đồng nói với tôi:

- Anh lên dịp này vừa gặp lại anh em ở học viện vừa gặp nhiều đồng hương đấy. Phải chuẩn bị tinh thần mà trả lời anh em về quê hương đi. Cán bộ, chiến sĩ trên trạm hầu như ở Nghệ An, Hà Tĩnh anh ạ.

Nghe thế, tôi mừng lắm, tủm tỉm cười một mình. Xe chạy đến chân đồi, bắt đầu rồ máy để leo lên dốc, bỗng một chiến sĩ mặc áo mưa ngồi trong lùm cây ven đường đột ngột đứng dậy, giơ tay lên vành mũ chào. Thấy lạ, tôi quay sang Đồng:

- Trạm ra đa cũng có vọng gác dưới chân đồi à? Gác sách gì mà chả có súng ống thế hả chú?

Đồng mỉm cười:

- Rồi anh sẽ biết thôi. Đây không có trạm gác đâu. Đồng chí ấy là “trợ lý tiếp phẩm” của trạm đấy!

Tôi tròn xoe mắt. Lại còn thế nữa! Trong Quân đội ta có rất nhiều chức danh trợ lý, nhưng cái chức trợ lý tiếp phẩm thì từ khi vinh dự được đội mũ có sao thì tôi chưa thấy bao giờ! Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng tôi không tiện hỏi. Thôi thì hẵng để thế xem sao!

Chiếc wave của Đồng còn mới mà phải ì ạch lắm mới leo được lên con đường trải bê tông phẳng lì. Trung tá Trần Cương, Chính trị viên trạm quê ở Kỳ Anh dẫn chúng tôi vào nhà chỉ huy. Căn nhà được xây dựng khang trang, nhưng nơi làm việc lại chìm sâu vào lòng đất như những căn hầm của sở chỉ huy thời chiến tranh. Cảm nhận đầu tiên của tôi là doanh trại đơn vị hết sức quy củ, sạch sẽ, ngăn nắp. Dọc theo đường lên trạm, đường đi trong trạm, những khẩu hiệu “Vinh quang thay người chiến sĩ bảo về bầu trời” được viết trang trọng bằng chữ vàng trên nền đỏ thắm, như nhắc nhở mọi người làm tròn sứ mệnh của mình.

Các phân đội chuẩn bị vào kíp trực

Gặp Trạm trưởng tôi nhận ra ông bạn cùng khóa nhưng học ra đa, quê ngoài Bắc, nhìn biển tên mới nhớ là Phan Minh, tốt nghiệp ra trường “hai sao” (Trung úy), nay đã mang quân hàm Thiếu tá. Minh không biết tôi đã chuyển loại cán bộ chính trị, lại càng bất ngờ hơn thấy tôi theo nghiệp viết lách. Sau phút ôn lại kỷ niệm cũ, nói về đơn vị, Minh tâm sự:

- Bạn thấy đấy, gọi là trạm nhưng quân số đơn vị lên đến hơn một đại đội. Cán bộ, chiến sĩ hầu hết còn rất trẻ, đang ở tuổi thanh niên. Quê quán anh em từ Bắc đến Nam đủ cả, nhưng nhiều nhất là người hai tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An. Cậu là người Hà Tĩnh phải không? Chẳng phải “nịnh” bạn đâu, nhưng thật lòng thì chiến sĩ hai tỉnh này vừa thông minh, vừa cần cù, chịu khó. Là một đơn vị kỹ thuật, tiếp xúc với khí tài hiện đại để quản lý bầu trời, nên càng cần những phẩm chất đó của người lính lắm!

Theo chân Minh, chúng tôi vào đài 12 đang phát sóng. Giữa cái lạnh cuối Đông trên đỉnh trời Cam Ranh này mà trong buồng máy hơi nóng phả ra hầm hập, cứ như đang ngồi giữa rốn gió Lào mùa hè nơi quê nhà. Trong buồng máy tối om, hai chiến sĩ, một Thiếu úy quân nhân chuyên nghiệp, một trung sĩ, quân phục chỉnh tề, mồ hôi ướt cả lưng áo đang dán mắt vào màn hình tròn xoay. Tiếng máy nổ chát chúa, đinh tai, nhức óc. Tôi phải hét vào tai người lính mang quân hàm trung sĩ: “Mỗi phiên các đồng chí trực mấy giờ?”; “Báo cáo: “Hai giờ ạ!” - Cậu chiến sĩ cũng nói như hét vào tai tôi. “Vất vả thế này, có thêm đồng phụ cấp nào không?”. “Báo cáo có ạ!”. Tôi định lấy máy tác nghiệp thì sực nhớ tấm biển “cấm quay phim, chụp ảnh” ngay lối vào nên đành thôi.

Câu chuyện trao đổi của chúng tôi liên tục bị cắt vụn bởi tiếng chuông điện thoại trong buồng máy réo rắt, thông báo mục tiêu. Chỉ mấy phút trong buổng máy chật chội, tối đen, nóng hầm hập, mắt dán vào màn hình tròn xoay cùng vệt quét màu đỏ và tiếng máy nổ chẳng khác gì lấy búa sắt nện liên hồi vào chiếc kẻng đặt ngay sát lỗ tai, ra khỏi buồng máy, ai cũng như say sóng, người chống chếnh, đi chân nam đá chân chiêu.

Phải mất mấy phút đứng yên, tôi mới lấy lại được thăng bằng. Biết tôi là đồng hương Hà Tĩnh, Trung úy Lê Văn An, Đài trưởng vừa ra khỏi buồng máy 13 đã chạy đến, cầm chặt tay tôi, rối rít: “Anh người Hà Tĩnh phải không? Gặp được đồng hương ở trên đỉnh trời này em mừng lắm. Đã đành ở đây đồng hương Nghệ Tĩnh cũng nhiều, nhưng đó là người… ở đây. Đã đành ngày nay có điện thoại thông minh, gặp được người thân thật dễ dàng, nhưng gặp được đồng hương bằng da, bằng thịt từ quê “choa” vô, lại là chuyện khác. Phải không anh?

Thấy cách nói Nghệ Tĩnh quá, tôi gật:

- Các cậu ở đây làm việc trong máy vất vả thì mình rõ rồi. Nhưng cuộc sống, sinh hoạt nó ra sao?

- Cũng vất vả như nhau cả thôi anh ạ. Nhưng đó là “chuyện thường ngày của lính” mà anh. Chúng em vẫn tự động viên nhau, phải làm sao xứng đáng là người con quê hương Tổng Bí thư Trần Phú, xứng đáng là Bộ đội Cụ Hồ! Anh thấy đấy, ngọn đồi này nằm gần biển, nên thấy nó cao chót vót. Nghe anh em cũ kể lại, ngày trước, cái khoản chở nước, gùi nước dưới chân đồi lên sinh hoạt là nỗi lo canh cánh của cán bộ, chỉ huy đơn vị. Ngày ấy nước ngọt trên trạm chẳng khác gì ngoài đảo. Mà với lính trạm, ngoài việc tắm, giặt còn phải lau chùi máy móc, nên nước đã thiếu, càng thiếu.

Dừng lại một lúc, An nhỏ nhẹ:

- Em kể cho anh chuyện này, chuyện lâu rồi, nghe để mà biết thôi. Một lần đồng chí Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng đến thăm trạm. Ông hết sức bất ngờ thấy anh em chiến sĩ, lúc đi ngủ không có nước rửa chân, phải lấy bao ni lông bọc hai bàn chân lại kẻo đất hay cái “mùi tất” lan sang cả chăn chiếu. Thấy thế, thương anh em quá, đồng chí Chủ nhiệm bật khóc. Nghe mà thương anh ạ. Giờ thì khác rồi! Trạm đã có nước sạch lên tận nơi cho anh em thoải mái dùng.

Kiểm tra trang thiết bị sẵn sàng chiến đấu.

Đang vui chuyện với An thì Thiếu úy Hồ Văn Đức, Quản lý trạm đi đến. An nháy mắt cho tôi: “Tay này quê Đức Lạc, Đức Thọ đấy anh. Làm quản lý nhưng cái cách trồng trỉa rau ria hắn lấy kinh nghiệm ở quê hắn mang vô, nên tươi tốt lắm. Rau của trạm chúng em mấy năm nay không những ăn thoải mái mà còn cấp cho trạm 11 ngoài Trường Sa nữa. Anh cứ tra hắn là ra vấn đề đấy!

“Được lời như cởi tấm lòng”, tôi quay ngay sang Đức. Cậu ta cười và nói: “Chuyện đâu có đó anh đồng hương ơi! Để em dẫn đồng hương ra vườn rau tăng gia của trạm “mục sở thị”. Rồi em kể đồng hương nghe!”. Ra tới vườn rau, Đức khoát một vòng tay: “Đất đồi này toàn đất cát hạt to. Loại cát hạt to này mưa xuống không giữ được nước đâu, hết mưa là khô như…cát! Nên đất trồng rau chúng em phải tổ chức cho bộ đội tranh thủ ngày Chủ nhật phát động anh em gùi từ các chân ruộng tít dưới chân đồi lên đấy. Chưa tính xúc đất, chỉ tính việc đi xuống rồi trèo lên đã mất đứt 30 phút lận. Lại phải rào cho kỹ bằng lưới sắt, cành cây, bao bì xác rắn để chống lũ thỏ rừng vào phá rau. Thỏ rừng, gà rừng, kỳ nhông ở đây nhiều vô kể. Thi thoảng bọn em vẫn bẫy để cải thiện.

Dừng một lúc, Đức lại rủ rỉ: “Quả thật, chúng em sống ở đây chẳng khác chi ngoài đảo. Ở đảo xa dân hơn, vắng vẻ hơn. Nhưng như thế, suy cho cùng lại có cái hay của xa dân, bởi với lính trẻ, chỉ ít ngày là nỗi nhớ nó vơi dần đi, nguôi ngoai đi. Còn ở đây, chỉ cần nhìn xuống chân đồi là có dịp “rửa mắt” rồi. Ai có bạn gái đành chấp nhận “nấu cháo điện thoại”, nhắn tin hay hôn gió người yêu qua zalo, “phây” thôi. Cũng may là ở đây đơn vị như một gia đình, gặp nhau chuyện trò như ngô rang nên cũng đỡ nhớ phần nào…!”

Bảo quản trang thiết bị sau khi huấn luyện, canh trực.

Nghe Đức kể tôi chợt thấy có cái gì đó cay cay nơi khóe mắt. Thấy chúng tôi chuyện trò rôm rả quá, cũng vừa tới giờ nghỉ trưa, anh em ồn ào chạy đến. Thì ra anh em ở đây biết rất rõ về sự đổi thay của quê nhà. Cả chuyện huyện nào đạt chuẩn nông thôn mới đầu tiên của tỉnh hay chuyện Hà Tĩnh đang là hình mẫu trong xây dựng nông thôn mới họ cũng kể vanh vách. Ai cũng hớn hở mừng cho quê hương đang đổi mới từng ngày. Người hỏi chuyện xây dựng nông thôn mới, kẻ hỏi khi nào cầu Cửa Hội thông xe? Nhìn gương mặt bừng sáng của các chiến sĩ, tôi mỉm cười hỏi cái điều mình chợt nhớ:

- Khi đến dưới chân đồi tôi nghe chú Đồng đây nói trạm ta có chức danh trợ lý tiếp phẩm?

Trung tá Trần Cương cười lớn: “Ở đây anh em họ gọi vui thế thôi. Là thế này anh ạ. Trạm chúng tôi ở trên cao, đường lên trạm dốc đứng. Chiến sĩ tiếp phẩm thì ngày nào cũng phải đi…tiếp phẩm. Mà xe tiếp phẩm thường chỉ là “không phanh, không chuông, không gác đờ bu”. Vậy nên khi xuống dốc phải có một người đi đằng sau kéo xe lại cho khỏi trôi. Xuống hết dốc ở lại chờ để khi tiếp phẩm về, phụ đẩy xe lên, chứ lúc đó xe đầy hàng, một mình tiếp phẩm đẩy lên sao nổi. “Trợ lý tiếp phẩm” là thế đấy anh ạ.

Anh em ồ lên cười mà lòng tôi thì rưng rưng. Thì ra đến cái chức danh người lính tếu táo đặt cho nhau cũng gợi cho người nghe một niềm vui rất lính, để cho vơi đi sự gian khó. Sẵn đà, tôi hỏi vui: “Vậy chứ Tết nhất năm nay anh em mình có ai nhớ nhà, nhớ người yêu mà khóc nhè hay sao nhãng nhiệm vụ không đấy?”. Một chiến sĩ mang quân hàm hạ sĩ, nói giọng đặc sệt Hương Sơn, tự giới thiệu mình tên là Lê Đức Tùng trả lời rất nghiêm túc:

- Báo cáo anh, khóc thì có đấy, nhưng sao nhãng thì tuyệt đối không. Đối với người lính ra đa chúng em, tối kỵ cái anh “lơ tơ mơ”, bởi chỉ một tích tắc sơ hở thôi là để lọt mục tiêu, là bị kẻ thù làm vấy bẩn, thậm chí giết chết mùa Xuân. Với lại, (cậu ta hóm hỉnh - PV) chúng tôi là lính phòng không nên ở gần ông trời, khác chi lính nhà trời. Gần gũi thế, Ngọc Hoàng Thượng đế mà thấy mình say, sai Thiên lôi đến đánh, thì chết cả nút!

Niềm vui giờ nghỉ.

Tiếng cười ấm cả làn mây trên đỉnh đồi. Tự nhiên một “sàn diễn” được hình thành ngay dưới hàng cây trứng cá, trúc anh đào đang đơm hoa, do trung tá Trần Xuân Cường trực tiếp làm “em xi”. Có ai đó nhanh chân chạy vào phòng Hồ Chí Minh lấy ra cây đàn ghi ta trao tận tay cho Xuân Cường. Thôi thì những bài hát nào hay nhất của Hà Tĩnh được anh em đơn ca, song ca, tốp ca, đồng ca hết sức say sưa, nhộn nhịp. Khi nghe Xuân Cường “chát xình” dạo khúc đầu, mọi người đồng thanh ưỡn ngực hát vang “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh/Nhớ núi Hồng Lĩnh, nhớ dòng sông La…”. Rồi chẳng ai bảo ai, thấy tôi mớm lời một đoạn “ra đa ca”: “Chúng tôi kéo máy lên đây giữa dầm dề mưa lạnh…”, tất cả cùng hòa ca: “Chúng tôi kéo máy lên đây, như năm nào kéo pháo vào Điện Biên/Qua Trường Sơn vào giải phóng miền Nam/Ở nơi này bốn phía là trời cao/Ăng-ten đó đưa mắt nhìn lặng lẽ/Cao hơn núi là chúng tôi lính trẻ/Chiến sĩ ra đa trên điểm chốt biên thùy…”. Tiếng hát vút cao, bồng bềnh rồi hòa vào gió mây.

Xế chiều, những dàn ăng ten ra đa vẫn bồng bềnh trong sương lặng lẽ, cần mẫn tung cánh sóng kiểm soát bầu trời mùa Xuân, còn chúng tôi lên xe “xuống núi”. Cán bộ, chiến sĩ trạm ra đa ùa đến bắt tay tạm biệt. Một Trung úy trẻ măng, giọng “trọ trẹ” ôm một cành mai vàng rực, chạy đến tươi cười trao cho tôi, rồi nói ấm áp trong tiếng gió rào rạt thổi về từ biển: “Anh cho chúng tôi, những người lính canh giữ bầu trời, canh giữ mùa xuân trên đỉnh trời Cam Ranh này gửi một chút mùa Xuân về quê hương. Chúng tôi xin hứa với quê hương mỗi người lính Hà Tĩnh sẽ làm tròn sứ mệnh của người lính, mãi mãi xứng đáng là con em Hà Tĩnh, mãi mãi xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.

Bút ký của HẢI BĂNG


Tác giả: hải băng
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Bình luận, góp ý (0)

Chưa có phản hồi

Bạn cần đăng nhập để bình luận

Xem nhiều
Liên kết Website
Tỷ giá

Quân khu - Quân chủng
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội