A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Về với Cồn Cỏ

Bài 2: Trên hải trình về với đảo

Giữa mênh mông sóng nước, con tàu lướt êm như một nhịp điệu êm ái, dẫn dắt những người lính vào cuộc hải trình đầy ý nghĩa. Từ ánh sáng lung linh của những chiếc tàu đánh cá đến bữa cơm ấm áp, mỗi khoảnh khắc đều thấm đẫm tình yêu biển đảo và lòng tự hào về Tổ quốc. Qua từng câu chuyện, từng tiếng cười, những người lính không chỉ là những chiến binh, mà còn là nhịp cầu kết nối giữa đất liền với biển cả, giữa quá khứ hào hùng với hiện tại vững vàng.

* Bài 1: Giấc mơ đến với biển

Tàu qua đảo Hòn Ngư, hướng về vùng biển khu vực đảo Mắt. Tôi cùng phóng viên Mạnh Hùng đứng trên mạn tàu nhìn ra hướng biển, lớp lớp con tàu đánh cá đêm như dệt nên lễ hội ánh sáng tỏa ra từ mặt biển. Hai anh em trò chuyện với nhau về phao số không, đường cơ sở... Và chẳng biết từ bao giờ, có một thủy thủ gương mặt còn rất trẻ đứng bên cạnh góp lời cùng câu chuyện. Em nói cho chúng tôi nghe về Luật Biển, cứ vanh vách, chuẩn chỉ từng câu, từng chữ… Dẫu đã đọc và nghiên cứu nhiều lần nhưng khi được cậu thủy thủ trẻ giới thiệu, chúng tôi càng thấm hơn từng câu, từng chữ và càng ghi khắc sâu sắc hơn giá trị máu xương, mồ hôi của cha ông đổ xuống để giữ gìn từng tấc biển thiêng liêng của Tổ quốc.

Bữa cơm đầu tiên của tôi trên biển. Trong phòng ăn trên con tàu quân sự, 3 mâm cơm, vẫn còn 1 mâm cơm để trống vì còn bộ phận đang thực hiện nhiệm vụ. Lúc ăn cơm, cũng như lúc “đánh trận”, cán bộ, thủy thủ đều quân phục chỉnh tề. Trước khi ăn cơm đồng chí Thượng úy Nguyễn Thái Vượng, Thuyền trưởng giới thiệu tất cả các món ăn trên tàu đều do anh em tăng gia sản xuất tự bảo đảm. Nhìn những món ăn, gợi nhắc cho tôi lời nói của Đại tá Nguyễn Tiến Sỹ, Chính ủy Lữ đoàn: “Người lính làm công tác hậu cần phải luôn là người đi trước về tăng gia sản xuất, đặc biệt, đối với người lính làm nhiệm vụ vận tải thủy, việc tự túc từ tăng gia, sản xuất là tiêu chuẩn hàng đầu để hình thành ý thức “sinh tồn” và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong điều kiện sóng to, gió lớn, lênh đênh trên biển dài ngày, nguồn lương thực, thực phẩm dự trữ cạn kiệt...

Kiểm tra hệ thống máy móc tàu trước khi rời bến.

 

Người làm nghề đi biển “ăn to, nói lớn”, “ăn sóng, nói gió”, bữa ăn trên tàu 15-11-26 cũng thoải mái, ồn ã tiếng nói, cười... Ai cũng bảo chúng tôi phải ăn thật nhiều, chứ không thì sóng dồn nửa đêm đói lả... Lời các anh nói, động tác các anh và cơm, gắp thức ăn cứ lẽ thường, tự nhiên như người trong một gia đình. Nhưng trong lẽ thường tình, tự nhiên, ồn ã ấy, đôi tai các anh vẫn tập trung cao độ theo tiếng máy của con tàu. Vừa gắp thức ăn cho tôi, Đại tá Nguyễn Đình Trường, Lữ đoàn trưởng vừa nói với đồng chí thợ máy còn rất trẻ: “Máy tàu nổ to hơn bình thường, yêu cầu kiểm tra”. Lúc này, tôi mới nhận ra đúng là tiếng nổ của tàu không êm như lúc trước… Đồng chí thợ máy tự tin trả lời ngay, máy tàu làm việc trong điều kiện thời tiết nắng nóng nên “e” làm mát hoạt động liên tục, chỉ cần hỗ trợ xả “e” là được…

Tiếng máy tàu êm dần, đều đều lướt sóng. Bữa ăn lại tiếp tục với tiếng nói, tiếng cười rổn rảng... Sau này, tìm hiểu kỹ hơn, tôi mới biết, cứ mỗi kíp thủy thủ vào ca là như mỗi lần ra trận và không ai nói ra nhưng tất cả như có quy ước ngầm, ca trực luôn gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ để cho đồng đội của mình có những giờ phút yên bình...

Với con tàu lớn như 15-11-26, biên chế phải từ 18 - 23 thủy thủ, nhưng quân số hiện có chỉ từ 8 - 14 đồng chí. Người ít, khi đi biển bám tàu đã đành, khi neo đậu ở bến công việc lại nhiều hơn gấp bội. 8 người vừa thực hiện nhiệm vụ chung của Lữ đoàn, vừa trông coi, bảo dưỡng, vệ sinh tàu, những ngày đất trời miền Trung nắng nóng đỉnh điểm nếu không có thần kinh thép thì không thể trụ vững. Khi tàu neo ở bến, máy không nổ, không có điện nên làm việc dưới tàu như làm việc trong lò nung. Anh em phải hạ thủy ca nô và che nắng để nghỉ ngơi trên bồng bềnh mặt nước. Đêm tối đến thì trải chiếu, mắc màn trên mạn, trên boong tàu để ngủ, thế rồi cũng quen. Làm bạn với tàu nên hỏng hóc, sự cố không chỉ có thợ máy mà anh em trên tàu đều thuộc nằm lòng nên thực hiện các hải trình huấn luyện xoay vòng trên các đảo của Quân khu, các kíp tàu của Lữ đoàn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bám tàu, bám đơn vị, nhiều đồng chí nhà chỉ cách đơn vị vài cây số nhưng rất ít về. Lúc thời tiết dịu mát, một số đồng chí có con nhỏ xin với chỉ huy cho vợ đưa con đến chơi. Để các cháu lên thăm tàu và có chỗ chơi an toàn, các anh còn mua chiếc xe máy trẻ con chạy bằng điện ắc quy. Những đứa trẻ lái xe máy chạy trên sàn tàu, tiếng còi vui tai và những nụ cười khoe hết cả hàm răng sún. Đến chơi với bố chỉ có vậy thôi nhưng đúa trẻ nào cũng vui và luôn bập bẹ câu nói: Lớn lên con cũng làm thủy thủ...

Tàu đi qua khu vực đảo Mắt. Ngồi trên mạn trái của con tàu, tôi thấy ánh sáng từ ngọn đèn biển trên đảo và ánh sáng của hàng trăm chiếc tàu đánh cá hai bên đảo như tạo thành bức tường ánh sáng giữa mênh mông trời nước biển khơi...

Tôi biết mấy năm nay cá, tôm, mực... có nhiều xung quanh khu vực đảo Mắt nên ngư dân được mùa. Công lao ấy, theo những người dân vùng biển nơi đây là nhờ các chú bộ đội trên đảo thường ngày tuyên truyền trên chiếc loa phóng thanh công suất lớn, khuyên bà con không dùng thuốc nổ, dùng lưới cào, lưới điện đánh bắt... Các chú bộ đội trên đảo luôn giúp đỡ ngư dân khi gặp sự cố trên biển. Lúc gặp bão to, sóng lớn, lúc thuyền hỏng máy, hết thức ăn, nước ngọt... đảo Mắt là nơi trú ẩn an toàn và các chú bộ đội trên đảo luôn nhường cơm, sẻ nước giúp đỡ ngư dân cho đến khi sóng lặng, biển yên.

Thuyền viên luyện tập phương án chiến đấu bảo vệ tàu.

 

...Tàu xuyên đêm tối lướt êm trên sóng biển hướng về Cồn Cỏ. Tôi hết ngồi bên mạn phải, mạn trái rồi lại lên buồng lái để cảm nhận đêm trên biển quê hương. Những cơn gió mát lành, hào phóng từ lòng biển cả làm cho tôi dẫu là lần đầu tiên đi đường dài trên biển nhưng không hề có cảm giác say sóng. Đêm đầu tiên giữa mênh mông sóng nước biển khơi, tôi thức cùng các anh thủy thủ... Biển đêm lung linh, những ánh đèn như được thắp lên từ mặt nước. Giọng đồng chí lái tàu đều đều, rủ rỉ: Mùa này ban đêm biển thức không ngủ... Ban ngày trời nắng nóng, ngư dân tranh thủ ban đêm đánh bắt cá... Biển về đêm lúc nào cũng rực sáng ánh đèn...

Tàu đi qua vùng biển Hà Tĩnh, tôi thấy như càng có thêm nhiều ánh đèn mọc lên từ đại dương. Đó là tín hiệu nối dài những niềm vui, vì vùng biển Hà Tĩnh và cả vùng biển ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế mới chỉ cách đây chưa lâu vắng lặng đến nao lòng bởi sự cố ô nhiễm môi trường biển do Công ty TNHH gang thép Hưng nghiệp Fomosa Hà Tĩnh gây ra. Còn bây giờ, sau những thăng trầm với sự chung tay, góp sức của nhiều lực lượng, tuy dẫu còn đâu đó có kẻ vẫn cố tình lợi dụng, đào xới sự cố, nhưng biển đã sạch, cá, tôm đã sinh sôi nảy nở... ngư dân yên tâm, phấn khởi làm ăn và bảo vệ biển quê hương.

Bốn giờ ba mươi phút sáng... tàu bắt đầu đi vào vùng biển tỉnh Quảng Bình. Lúc này chưa đến giờ báo thức, nhưng tất cả cán bộ, thủy thủ trên tàu đều đã quân phục chỉnh tề đứng nghiêm trang hướng về phía Vũng Chùa - đảo Yến nơi yên nghỉ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tiếng các anh hòa theo tiếng sóng... Mỗi lần qua Vũng Chùa - đảo Yến là thêm một lần các anh khắc ghi công ơn lớn lao của vị Đại tướng suốt đời vì nước, vì dân… để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao.

Bình minh tỏa nắng, dát vàng trên mặt biển. Bữa ăn sáng của những thủy thủ trên tàu diễn ra nhanh chóng. Sau một đêm thức để con tàu đi đúng hải trình, một ngày mới đang chờ đón các thủy thủ với tất bật công việc...

Tôi cùng phóng viên Mạnh Hùng dùng máy quay, máy ảnh theo sát công việc của các thủy thủ mà mồ hôi trên người cứ tuôn chảy... Vừa xong kiểm tra nội vụ lại đến kiểm tra tàu và tiếp nối là luyện tập các phương án chiến đấu. Biển xanh thẳm, tiếng máy tàu nổ đều... nhưng cái nắng nóng khủng khiếp tỏa xuống như nung... Những dấu giày hằn lên sắt thép trên boong tàu ngày càng rõ hơn. Mồ hôi thấm đẫm quân phục màu sóng biển, nhưng ai cũng như chạy đua với thời gian để huấn luyện sát thực tế... Các anh quý trọng, chắt chiu từng mét của hải trình, bởi vì không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện, nhất là các hải trình xa như đảo Cồn Cỏ. Dường như muốn chia sẻ sự vất vả của các thủy thủ, thỉnh thoảng trên mặt biển lại xuất hiện những đàn cá chuồn bay trên mặt nước, tạo thành những dòng bọt trắng li ti muôn hình thù, trông thật vui mắt…

Còn cách Cồn Cỏ bao nhiêu hải lý? Mấy giờ thì đến Cồn Cỏ... những câu hỏi đó cứ cuốn lấy suy nghĩ của tôi. Với tôi, tuy là lần đầu tiên đến với Cồn Cỏ, nhưng từ lâu tôi đã xem Cồn Cỏ rất gần gũi, thân thương, chính như ngôi nhà của mình vậy. Tôi biết đến Cồn Cỏ qua bút ký “Tiếng gà trưa Cồn Cỏ” của nhà báo Quân đội Trần Hoài. Tôi biết đến Cồn Cỏ với anh hùng Thái Văn A trong những trang sách tuổi thơ. Tôi biết đến Cồn Cỏ trong tác phẩm báo chí “Nhà thơ Xuân Diệu với bài thơ dở dang về Cồn Cỏ” của cộng tác viên, người con quê hương Quảng Trị - Nguyễn Ngọc Chiến. Và cả khi mới tập tẹ vào nghề viết, tôi được nghe bác Trần Biên, người con xứ Thanh nhưng mến yêu quê hương Quảng Trị nên đã chọn vùng đất nơi biển Cửa Tùng “an cư, lạc nghiệp” kể cho tôi nghe rất nhiều câu chuyện về Cồn Cỏ. Những đêm Cửa Tùng, trong sắc biển đầy ánh lân tinh, bác Trần Biên rủ rỉ kể về những con người Quảng Trị đã đội bom, hứng đạn chèo thuyền tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ... Và lần đầu tiên trong đời tôi đã viết truyện ngắn “Trở về”. Hình ảnh những người chồng, người cha, dũng cảm đội bom, hứng đạn chèo thuyền chở hàng tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ mà thịt nát, xương tan hòa vào sóng biển vì bom đạn giặc Mỹ theo lời kể của bác Trần Biên... đã kết nên một “mái chèo” - mái chèo bất tử - mái chèo của những linh hồn kiên trung hiện về với những người mẹ hóa đá vọng phu ngay tại mũi đá nhô ra biển Cửa Tùng (mà tôi gọi đó là Mũi Chờ). Thương nhớ chồng, mẹ đem mái chèo đắp thành ngôi mộ nơi Mũi Chờ. Đêm đêm mẹ dắt con đến đó, kể cho con nghe về người cha của mình... Cũng đêm đêm ngôi mộ như có những vì sao sáng nhấp nháy... dệt nên huyền thoại về những con người bất tử với Cồn Cỏ, với đất thép Vĩnh Linh “máu và hoa”...

"Đảo Thép anh hùng" sừng sững hiên ngang giữa biển trời Tổ quốc

 

Mười bốn giờ, chúng tôi thấy Cồn Cỏ như một con thuyền nhỏ màu xanh neo trên mặt biển. Lữ đoàn trưởng Nguyễn Đình Trường chỉ thị cho tàu chạy hết công suất. Cùng với Lữ đoàn trưởng, trong số các thủy thủ trên tàu 15-11-26, có nhiều người đã ra đảo Cồn Cỏ nhiều lần. Nhưng theo tâm sự của các anh thì lần nào các anh cũng hồi hộp và muốn được đặt chân lên đảo thật sớm như lần đến đầu tiên... Tôi đứng trên mạn tàu, mắt không rời nhìn về phía đảo. Vì sung sướng và hồi hộp nên tôi có cảm giác như tiếng nhịp đập từ trái tim mình còn lớn hơn cả tiếng máy tàu, tiếng sóng biển...

Mười lăm giờ bốn mươi lăm phút, con tàu dừng lại neo đậu cách đảo Cồn Cỏ vài trăm mét. Biển cả như thử thách lòng người, sóng dồn lên, đẩy chiếc ca nô vừa hạ thủy lên cao, rồi đột ngột thả xuống, hết sức nguy hiểm. Không chút do dự, Lữ đoàn trưởng Nguyễn Đình Trường bằng động tác từng trải của người đi biển nhanh chóng nhảy xuống cùng với đồng chí thợ lái giữ thăng bằng để cán bộ, thủy thủ trên tàu chuyển sang chiếc ca nô di chuyển vào bờ...

Chiếc ca nô chòng chành trong sóng nước Cồn Cỏ đưa chúng tôi lên thăm đảo.

 

Thấy chiếc ca nô nhỏ không chở hết số người chờ lên đảo, chiếc thuyền của ngư dân đang chạy hết công suất để kịp giờ ra khơi đánh cá đã bẻ lái cập mạn tàu 15-11-26 hỗ trợ. Tôi lên chiếc thuyền của ngư dân. Con thuyền đè sóng, chốc lát đã cập âu tàu. Lúc này, tôi và các thủy thủ mới chợt nhớ và hỏi tên hai ngư dân trên chiếc thuyền cá. Đáp lại lời chúng tôi, hai ngư dân cười thật hiền, tiếng nói hòa theo tiếng sóng, hẹn gặp lại các chú bộ đội, chúng tôi đi để kịp giờ thả lưới… Người Quảng Trị là vậy đó, đã giúp ai là giúp thiệt tình, chẳng tính toán thiệt hơn.

Bài, ảnh: HỒ LĨNH


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Bình luận, góp ý (0)

Chưa có phản hồi

Bạn cần đăng nhập để bình luận

Xem nhiều
Liên kết Website
Tỷ giá

Quân khu - Quân chủng
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội