A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Tất yếu khách quan và giải pháp hoàn thiện

Bài 2: Giải pháp hoàn thiện

Trong quá trình đổi mới, nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được hoàn thiện, từ chỗ coi kinh tế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản đến việc khẳng định đây là mô hình kinh tế phổ biến của nhân loại, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình vận hành nền kinh tế vẫn còn một số hạn chế. Để phát triển bền vững, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cấp thiết.

Quá trình nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Từ Đại hội VI (12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối Đổi mới, trong đó chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, bước đầu thừa nhận vai trò của thị trường trong nền kinh tế. “Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải được tăng cường về số lượng và chất lượng, đổi mới phương thức kinh doanh, vươn lên làm chủ thị trường và giá cả. Mạng lưới hợp tác xã mua bán phải được mở rộng để làm chủ thị trường nông thôn, bán phần lớn hàng công nghiệp tiêu dùng thiết yếu cho nông dân”. [1]

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (Ảnh tư liệu).

 

Đại hội VII (1991) lần đầu tiên khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là dấu mốc quan trọng trong việc xác định mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam.

Đến Đại hội VIII (1996), thuật ngữ “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được chính thức sử dụng, nhấn mạnh tính chất đặc thù của mô hình kinh tế Việt Nam. Đại hội IX (2001), X (2006) và XI (2011), nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được cụ thể hóa, nhấn mạnh vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân; đồng thời, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và chức năng điều tiết của Nhà nước nhằm bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.

Bước vào giai đoạn mới, Đại hội XII (2016) và XIII (2021) của Đảng tiếp tục hoàn thiện quan điểm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng nhưng vẫn bảo đảm vai trò chủ đạo của Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” [2].

Những hạn chế, tồn tại

Mặc dù kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá nhanh trong những năm qua, nhưng động lực phát triển chủ yếu vẫn dựa vào vốn đầu tư và lao động giá rẻ, thay vì đổi mới công nghệ. Điều này dẫn đến năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, làm hạn chế khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Hiện tại, GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284,5 USD, vẫn ở mức thấp so với khu vực. [3]

Khu vực kinh tế nhà nước dù giữ vai trò chủ đạo nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Hiệu quả hoạt động của nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa cao, dẫn đến lãng phí nguồn lực. Quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm, chưa tạo được những đột phá mạnh mẽ như kỳ vọng.

Bên cạnh đó, khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội có xu hướng gia tăng. Chất lượng thể chế kinh tế thị trường vẫn chưa hoàn thiện, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách trong một số lĩnh vực còn chồng chéo, thiếu nhất quán, chưa theo kịp thực tiễn. Vấn đề môi trường và phát triển bền vững cũng đặt ra những thách thức lớn.

Cán bộ, nhân viên, Trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 hỗ trợ Nhân dân khắc phục hậu quả thiên tại (Ảnh minh họa).

 

Đánh giá 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hưóng hiện đại chưa đạt yêu cầu, chưa thu hẹp được khoảng cách phát triển và bắt kịp các nước trong khu vực. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Môi trường kinh doanh ở một số lĩnh vực, địa phương còn hạn chế, chưa thực sự thông thoáng. Các đột phá chiến lược chưa có bứt phá”[4].

Giải pháp hoàn thiện

Một số hạn chế nêu trên không chỉ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng mà còn tác động đến tính bền vững của nền kinh tế. Do đó, để khắc phục những tồn tại này và phát huy những thành tựu đạt được, cần tiếp tục triển khai các giải pháp đồng bộ.

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế.

Thể chế kinh tế thị trường là yếu tố cốt lõi quyết định hiệu quả vận hành của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, mặc dù Việt Nam đã có những cải cách quan trọng về thể chế kinh tế, nhưng vẫn còn tình trạng chồng chéo pháp luật, thủ tục hành chính rườm rà, gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý theo hướng nhất quán, đồng bộ với các chuẩn mực quốc tế là điều kiện tiên quyết.

Cụ thể, cần rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật về đầu tư, kinh doanh, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh hơn cho các địa phương đi đôi với tăng cường giám sát, kiểm tra, qua đó tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch và thuận lợi.

Hai là, Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh.

Mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và lao động giá rẻ đã bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển cao hơn với những yêu cầu khắt khe về chất lượng và đổi mới sáng tạo. Việc dịch chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, công nghệ và đổi mới sáng tạo là yêu cầu cấp bách.

Thực tiễn tại Việt Nam cũng cho thấy, các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với doanh nghiệp chỉ dựa vào lao động giá rẻ. Vì vậy, Việt Nam cần tập trung phát triển khoa học – công nghệ, thúc đẩy kinh tế số, khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số hóa.

Ba là, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cải cách, xử lý tình trạng lãng phí nguồn lực và đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa. Trước hết, cần đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN theo hướng tập trung vào các lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và an ninh quốc gia, đồng thời áp dụng các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động dựa trên các chỉ số tài chính, quản trị và đóng góp cho nền kinh tế.

Kiểm tra, nghiệm thu công trình thi công tại Khu Kinh tế - Quốc phòng Minh Hóa - Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình (Ảnh minh họa)

 

Song song với đó, cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN theo hướng công khai, minh bạch, đảm bảo định giá doanh nghiệp sát với giá trị thực tế, đồng thời thu hút các nhà đầu tư chiến lược có năng lực tài chính và kinh nghiệm quản trị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sau cổ phần hóa. Nhà nước cũng cần hoàn thiện khung pháp lý về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, tăng cường chế tài xử lý các vi phạm, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong quản trị doanh nghiệp để nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh.

Bốn là, Phát triển an sinh xã hội và giảm chênh lệch giàu nghèo, bảo vệ môi trường.

Chênh lệch giàu nghèo tại Việt Nam những năm gần đây có xu hướng gia tăng. Kinh nghiệm từ các nước Bắc Âu cho thấy, những nền kinh tế có hệ thống an sinh xã hội tốt sẽ tạo động lực phát triển bền vững hơn. Vì vậy, Việt Nam cần mở rộng chính sách hỗ trợ cho các nhóm yếu thế, đảm bảo tiếp cận bình đẳng với giáo dục, y tế và việc làm. Đồng thời, chính sách tiền lương cần được điều chỉnh hợp lý để bảo vệ quyền lợi của người lao động, tạo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và ổn định xã hội.

Bên cạnh đó, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên. Do đó, cần thực hiện nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường, khuyến khích phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ sạch.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ cấp thiết nhằm bảo đảm nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Với quyết tâm chính trị cao, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và sự đồng lòng của toàn dân, Việt Nam có thể hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một nền kinh tế hiện đại, hội nhập, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.

Bài 1: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – Con đường tất yếu của Việt Nam

Bài, ảnh: CẢNH VINH

 

[1] Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển KT - XH trong 5 năm 1986 – 1990, Văn kiện Đảng toàn tập, tr 41, tập 47, NXB Chính trị quốc gia. H2006.

[2] Văn kiện đại hội XIII của Đảng, tr106, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, H2021.

[3] GDP và GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay, Thư viện Pháp luật.

[4] Văn kiện đại hội XIII của Đảng, tr172, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật. H2021.


Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Bình luận, góp ý (0)

Chưa có phản hồi

Bạn cần đăng nhập để bình luận

Tin liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Xem nhiều
Liên kết Website
Tỷ giá

Quân khu - Quân chủng
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội