A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Về với Cồn Cỏ

Chuyến đi này tôi có 3 cái đầu tiên: Lần đầu tiên được đi trên con tàu vận tải biển quân sự có sức chở 450 tấn; lần đầu tiên được ngủ nhiều đêm liền trên biển; lần đầu tiên được đến với Cồn Cỏ - Hòn đảo Thép anh hùng nên tâm trạng vừa vui mừng, vừa hồi hộp… Từ lúc di chuyển bằng chiếc ca nô nhỏ trên dòng sông Lam để lên chiếc tàu vận tải quân sự số hiệu 15-11-26 của Lữ đoàn Vận tải thủy 873, Cục Hậu cần Quân khu 4, tôi luôn tự nhủ mình phải đứng thật vững giữa chòng chành sóng nước… Vậy mà, khi bước chân lên con tàu lớn, đôi chân tôi cứ líu ríu, ngỡ ngàng, bởi niềm vui chỉ thời gian ngắn nữa thôi con tàu sẽ đè sóng dòng Lam, hướng ra biển lớn, đến với Cồn Cỏ…

Tàu chưa xuất bến, nhưng trên những gương mặt thủy thủ mồ hôi cứ đầm đìa chảy dưới cái nắng chiều như thiêu, như đốt của “chảo lửa” miền Trung. Các anh tất bật làm công tác chuẩn bị… Giữa không khí hối hả ấy, tôi ngước nhìn lên thấy lá cờ đỏ sao vàng phần phật tung bay ở nơi cao nhất của con tàu… Phía xa, sau màu đỏ tự hào ấy là núi Quyết, cầu Bến Thủy như rực lên, lóa sáng dưới nắng chiều… Tôi cứ nghĩ, chuyến đi này là mạch nguồn kết nối những trang sử hào hùng, oanh liệt giữa các địa danh “rực lửa chiến công” trên dải đất, sông núi, biển trời của khúc ruột miền Trung… Những liên tưởng trong dòng chảy màu đỏ truyền thống ấy lại càng làm tôi xốn xang hơn…

Thủy thủ tàu 15-11-26 vững vàng tay lái trên hải trình đến với đảo Cồn Cỏ

Bước lên buồng lái và được phép của người chỉ huy tàu, tôi ngồi vào chiếc ghế của người lái tàu. Hai tay tôi run run đặt vào vị trí điều khiển theo sự hướng dẫn của các thủy thủ, mắt hướng về phía trước. Trước mắt tôi, sóng của dòng Lam Giang như ánh lên, nhảy múa tý tách dưới nắng chiều vàng rộm, chia vui cùng tôi. Niềm vui chỉ lát nữa thôi, con tàu khởi hành đưa tôi đắm mình trong sóng xanh, biển biếc quê hương, đến với Cồn Cỏ…

Được ngồi trên chiếc ghế lái của một con tàu lớn (dù chỉ là tượng trưng để biết công việc của người lái tàu) mà tôi thấy như ước mơ từ thuở bé của mình đã thành hiện thực. Tôi sinh ra từ rừng, qua lời cha kể… qua trang sách học trò… biển trong giấc mơ tôi cứ chập chờn như chiếc giường khổng lồ, mênh mang, tít tắp trải rộng cho đến khi trời, nước gặp nhau… Tôi nằm trên chiếc giường biển khơi, ngàn con sóng như ngàn chiếc võng cứ chao nghiêng ru tôi ngủ… Lớn lên, tôi vào bộ đội, được đi xa, được nhìn thấy biển, được biết về Hoàng Sa, Trường Sa trong những trang sử, câu thơ dậy sóng… biết được các thế hệ ông cha đã có bao người ngã xuống để làm nên một con đường Hồ Chí Minh trên biển… và cả những thế hệ nối tiếp thế hệ cưỡi sóng Biển Đông, chống chọi với thiên tai, giặc dã (dẫu trong tay không một tấc sắt, trước sự tấn công hung hãn của những con tàu lạ) vẫn kiên cường bám biển… Tôi mới hiểu biển cũng thật dữ dội… Êm ả, bao la, cuồng phong, dữ dội đã nuôi lớn trong tôi tình yêu biển…

Tình yêu ấy cứ lớn dần theo năm tháng… đến hôm nay tôi được đi biển dài ngày và càng ý nghĩa hơn khi tôi được “về với Cồn Cỏ” - Chiến hạm nổi giữa biển khơi, nơi hàng ngàn tấn bom đạn của đế quốc Mỹ trút xuống cũng không thể nhấn chìm…

17 giờ 21 phút con tàu xuất bến… Từ người chỉ huy lữ đoàn đến các thủy thủ trên tàu đều thể hiện rõ quyết tâm: Vận hành tàu, xử lý các tình huống đúng kế hoạch, hải trình, đảm bảo an toàn tuyệt đối… Qua những cuộc trò chuyện, tôi biết các anh đều mơ ước sẽ có lần lái chính con tàu thân yêu của mình đến với Trường Sa… Những chuyến đi, huấn luyện, vận chuyển hàng hóa đến với đảo Hòn Mê, đảo Ngư, đảo Mắt, đảo Sơn Dương, đảo Hòn La, đảo Cồn Cỏ của dải đất Quân khu 4 từ Tam Điệp đến Hải Vân… là một lần tích lũy kinh nghiệm chuẩn bị cho các hải trình xa hơn, thực hiện nhiệm vụ lớn hơn khi Tổ quốc cần…

Thuyền viên luyện tập phương án chiến đấu bảo vệ tàu

18 giờ 30 phút tàu rẽ sóng Cửa Hội, hướng ra biển theo phía phải đảo Hòn Ngư. Đã có lần được theo tàu của Bộ CHQS tỉnh Nghệ An ra đảo Mắt nên tôi biết sóng cửa Hội là sóng ngang nên phải thật vững tay lái mới đảm bảo an toàn. Trời chạng vạng tối, trong ánh sáng mờ mờ dần bủa vây mặt biển, những con tàu của ngư dân sau một chuyến ra khơi đang hối hả trở về. Giữa sóng nước chiêng chao, tôi thấy trên những chiếc tàu cá, ngư dân đều giơ tay chào khi gặp tàu quân sự đi qua… Hình ảnh ấy thật gần gũi, thân quen như bộ đội chúng tôi vẫn chào nhau bằng điều lệnh… Tôi bấm số điện thoại gọi cho anh ngư dân ở Cửa Lò (người ngư dân can trường bám biển mà tôi quen từ dạo đi tìm hiểu để viết bài khi Biển Đông không yên ả vì bị nhiều tàu lạ hung hãn tấn công). Gia đình anh, thế hệ nối tiếp thế hệ, từ đời kỵ, đời cụ, đời ông, đời cha, đời con đều làm nghề đi biển và gắn bó với ngư trường Hoàng Sa. Vượt đạn bom trong chiến tranh, vượt sự côn đồ, trơ tráo, hung hãn của tàu lạ và những kẻ có dã tâm xấu trong thời bình… lớp cha trước, lớp con sau của gia đình anh luôn coi vùng biển Hoàng Sa là nhà và như anh nói: Hoàng Sa là máu thịt của đất nước mình, một tấc biển không thể tách rời…

Phóng viên Mạnh Hùng tác nghiệp trên tàu

Anh lý giải cho tôi biết, khi gặp tàu quân sự, ngư dân không ai bảo ai đều giơ tay chào bởi đối với họ đó là tín hiệu bình yên… Làm nghề biển lênh đênh, cách bờ xa thẳm, nhưng ở bên cạnh, đồng hành với ngư dân luôn có tàu của lực lượng kiểm ngư, hải quân, cảnh sát biển, tàu vận tải quân sự… nên dẫu chỉ một sự cố nhỏ thôi và cả khi có tàu lạ hung hăng chèn ép… thỉ chỉ sau cuộc gọi từ bộ đàm tàu của các lực lượng Quân đội hoạt động trên biển luôn có mặt để hỗ trợ ngư dân. Vì thế, mỗi khi nhìn thấy lá cờ Tổ quốc tung bay và ngôi sao vàng trên con tàu quân sự, mọi ngư dân đều giơ tay chào… Lời của anh ngư dân can trường bám biển Hoàng Sa, gợi cho tôi nhớ đến, nhiệm vụ của các thủy thủ trên con tàu 15-11-26, nhiệm vụ của Lữ đoàn 873 không chỉ là vận tải hàng hóa quân sự mà còn cứu hộ, cứu nạn khi ngư dân gặp sự cố trên sông, trên biển. Năm 2014, con tàu vận tải với sức chở 2000 tấn của Công ty TNHH Thương mại Thịnh An gặp sự cố bị trôi dạt ở vùng biển đảo Mê, Thanh Hóa, tàu 15-11-26 của Lữ đoàn 873 đã vượt sóng biển khơi, cứu hộ, lai dắt con tàu bị nạn vào cảng Bến Thủy an toàn.

Tàu qua đảo Hòn Ngư, hướng về vùng biển khu vực đảo Mắt. Tôi cùng phóng viên Mạnh Hùng đứng trên mạn tàu nhìn ra hướng biển, lớp lớp con tàu đánh cá đêm như dệt nên lễ hội ánh sáng tỏa ra từ mặt biển. Hai anh em trò chuyện với nhau về phao số không, đường cơ sở… Và chẳng biết từ bao giờ, có một thủy thủ gương mặt còn rất trẻ đứng bên cạnh góp lời cùng câu chuyện. Em nói cho chúng tôi nghe về Luật biển, cứ vanh vách, chuẩn chỉ từng câu, từng chữ… Dẫu đã đọc và nghiên cứu nhiều lần nhưng khi được cậu thủy thủ trẻ giới thiệu, chúng tôi càng thấm hơn từng câu, từng chữ và càng ghi khắc sâu sắc hơn giá trị máu xương, mồ hôi của cha ông đổ xuống để giữ gìn từng tấc biển thiêng liêng của Tổ quốc.

Bữa cơm đầu tiên của tôi trên biển. Trong phòng ăn trên con tàu quân sự, 3 mâm cơm, vẫn còn 1 mâm cơm để trống (vì còn bộ phận đang thực hiện nhiệm vụ). Lúc ăn cơm, cũng như lúc “đánh trận”, cán bộ, thủy thủ đều quân phục chỉnh tề. Trước khi ăn cơm đồng chí Thượng úy Lê Đức Sản, Thuyền trưởng giới thiệu tất cả các món ăn trên tàu đều do anh em tăng gia sản xuất tự bảo đảm. Nhìn những món ăn, gợi nhắc cho tôi lời nói của Thượng tá Lê Văn Trung, Chính ủy Lữ đoàn 873: “Người lính làm công tác hậu cần phải luôn là người đi trước về tăng gia sản xuất, đặc biệt, đối với người lính làm nhiệm vụ vận tải thủy, việc tự túc từ tăng gia, sản xuất là tiêu chuẩn hàng đầu để hình thành ý thức “sinh tồn” và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong điều kiện sóng to, gió lớn, lênh đênh trên biển dài ngày, nguồn lương thực, thực phẩm dự trữ cạn kiệt…

Người làm nghề đi biển “ăn to, nói lớn”, “ăn sóng, nói gió”, bữa ăn trên tàu 15-11-26 cũng thoải mái, ồn ã tiếng nói, cười… Ai cũng bảo chúng tôi phải ăn thật nhiều, chứ không thì sóng dồn nửa đêm đói lả… Lời các anh nói, động tác các anh và cơm, gắp thức ăn cứ lẽ thường, tự nhiên như người trong một gia đình. Nhưng trong lẽ thường tình, tự nhiên, ồn ã ấy, đôi tai các anh vẫn tập trung cao độ theo tiếng máy của con tàu. Vừa gắp thức ăn cho tôi, Đại tá Trần Văn Chiến, Lữ đoàn trưởng vừa nói với đồng chí thợ máy còn rất trẻ: “Máy tàu nổ to hơn bình thường, yêu cầu kiểm tra”. Lúc này, tôi mới nhận ra đúng là tiếng nổ của tàu không êm như lúc trước… Đồng chí thợ máy tự tin trả lời ngay, máy tàu làm việc trong điều kiện thời tiết nắng nóng nên “e” làm mát hoạt động liên tục, chỉ cần hỗ trợ xả “e” là được…

Tiếng máy tàu êm dần, đều đều lướt sóng. Bữa ăn lại tiếp tục với tiếng nói, tiếng cười rổn rảng… Sau này, tìm hiểu kỹ hơn, tôi mới biết, cứ mỗi kíp thủy thủ vào ca là như mỗi lần ra trận và không ai nói ra nhưng tất cả như có quy ước ngầm, ca trực luôn gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ để cho đồng đội của mình có những giờ phút yên bình…

Với con tàu lớn như 15-11-26, biên chế phải từ 18 – 23 thủy thủ, nhưng quân số hiện có chỉ từ 8 – 14 đồng chí. Người ít, khi đi biển bám tàu đã đành, khi neo đậu ở bến công việc lại nhiều hơn gấp bội. 8 người vừa thực hiện nhiệm vụ chung của Lữ đoàn, vừa trông coi, bảo dưỡng, vệ sinh tàu, những ngày đất trời miền Trung nắng nóng đỉnh điểm nếu không có thần kinh thép thì không thể trụ vững. Khi tàu neo ở bến, máy không nổ, không có điện nên làm việc dưới tàu như làm việc trong lò nung. Anh em phải hạ thủy ca nô và che nắng để nghỉ ngơi trên bồng bềnh mặt nước. Đêm tối đến thì trải chiếu, mắc màn trên mạn, trên boong tàu để ngủ, thế rồi cũng quen. Làm bạn với tàu nên hỏng hóc, sự cố không chỉ có thợ máy mà anh em trên tàu đều thuộc nằm lòng nên thực hiện các hải trình huấn luyện xoay vòng trên các đảo của Quân khu, các kíp tàu của Lữ đoàn 873 luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bám tàu, bám đơn vị, nhiều đồng chí nhà ở chỉ cách đơn vị vài cây số nhưng rất ít về. Lúc thời tiết dịu mát, một số đồng chí có con nhỏ xin với chỉ huy cho vợ đưa con đến chơi. Để các cháu lên thăm tàu và có chỗ chơi an toàn, các anh góp tiền mua chiếc xe máy trẻ con chạy bằng điện ắc quy. Những đứa trẻ lái xe máy chạy trên sàn tàu, tiếng còi vui tai và những nụ cười khoe hết cả hàm răng sún. Đến chơi với bố chỉ có vậy thôi nhưng đúa trẻ nào cũng vui và luôn bập bẹ câu nói: Lớn lên con cũng làm thủy thủ...

Tàu đi qua khu vực đảo Mắt. Ngồi trên mạn trái của con tàu, tôi thấy ánh sáng từ ngọn đèn biển trên đảo và ánh sáng của hàng trăm chiếc tàu đánh cá hai bên đảo như tạo thành bức tường ánh sáng giữa mênh mông trời nước biển khơi…

Tôi biết mấy năm nay cá, tôm, mực… có nhiều xung quang khu vực đảo Mắt nên ngư dân được mùa. Công lao ấy, theo những người dân vùng biển nơi đây là nhờ các chú bộ đội trên đảo thường ngày tuyên truyền trên chiếc loa phóng thanh công suất lớn, khuyên bà con không dùng thuốc nổ, dùng lưới cào, lưới điện đánh bắt… Các chú bộ đội trên đảo luôn giúp đỡ ngư dân khi gặp sự cố trên biển. Lúc gặp bão to, sóng lớn, lúc thuyền hỏng máy, hết thức ăn, nước ngọt… đảo Mắt là nơi trú ẩn an toàn và các chú bộ đội trên đảo luôn nhường cơm, sẻ nước giúp đỡ ngư dân cho đến khi sóng lặng, biển yên.

…Tàu xuyên đêm tối lướt êm trên sóng biển hướng về Cồn Cỏ. Tôi hết ngồi bên mạn phải, mạn trái rồi lại lên buồng lái để cảm nhận đêm trên biển quê hương. Những cơn gió mát lành, hào phóng từ lòng biển cả làm cho tôi dẫu là lần đầu tiên đi đường dài trên biển nhưng không hề có cảm giác say sóng. Đêm đầu tiên giữa mênh mông sóng nước biển khơi, tôi thức cùng các anh thủy thủ… Biển đêm lung linh, những ánh đèn như được thắp lên từ mặt nước. Giọng đồng chí lái tàu đều đều, rủ rỉ: Mùa này ban đêm biển thức không ngủ… Ban ngày trời nắng nóng, ngư dân tranh thủ ban đêm đánh bắt cá… Biển đêm lúc nào cũng rực sáng ánh đèn…

Đại tá Trần Văn Chiến, Lữ đoàn trưởng kiểm tra hải trình ban đêm của chỉ huy tàu 15-11-26

Tàu đi qua vùng biển Hà Tĩnh, tôi thấy như càng có thêm nhiều ánh đèn mọc lên từ đại dương. Đó là tín hiệu nối dài những niềm vui, vì vùng biển Hà Tĩnh và cả vùng biển ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế mới chỉ cách đây chưa lâu vắng lặng đến nao lòng bởi sự cố ô nhiễm môi trường biển do Fomosa gây ra. Còn bây giờ, sau những thăng trầm với sự chung tay, góp sức của nhiều lực lượng, tuy dẫu còn đâu đó có kẻ vẫn cố tình lợi dụng, đào xới sự cố, nhưng biển đã sạch, cá, tôm đã sinh sôi nảy nở… ngư dân yên tâm, phấn khởi làm ăn và bảo vệ biển quê hương.

Bốn giờ ba mươi phút sáng… tàu bắt đầu đi vào vùng biển tỉnh Quảng Bình. Lúc này chưa đến giờ báo thức, nhưng tất cả cán bộ, thủy thủ trên tàu đều đã quân phục chỉnh tề đứng nghiêm trang hướng về phía Vũng Chùa, đảo Yến nơi yên nghỉ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tiếng các anh hòa theo tiếng sóng… Mỗi lần qua Vũng Chùa, đảo Yến là thêm một lần các anh khắc ghi công ơn lớn lao của vị Đại tướng suốt đời vì nước, vì dân… để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao.

Bình minh tỏa nắng, dát vàng trên mặt biển. Bữa ăn sáng của những thủy thủ trên tàu diễn ra nhanh chóng. Sau một đêm thức để con tàu đi đúng hải trình, một ngày mới đang chờ đón các thủ thủy với tất bật công việc…

Tôi cùng phóng viên Mạnh Hùng dùng máy quay, máy ảnh theo sát công việc của các thủy thủ mà mồ hôi trên người cứ tuôn chảy… Vừa xong kiểm tra nội vụ lại đến kiểm tra tàu và tiếp nối là luyện tập các phương án chiến đấu. Biển xanh thẳm, tiếng máy tàu nổ đều… nhưng cái nắng nóng khủng khiếp tỏa xuống như nung… Những dấu giày hằn lên sắt thép trên boong tàu ngày càng rõ hơn. Mồ hôi thấm đẫm quân phục màu sóng biển, nhưng ai cũng như chạy đua với thời gian để huấn luyện sát thực tế… Các anh quý trọng, chắt chiu từng mét của hải trình, bởi vì không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện, nhất là các hải trình xa như đảo Cồn Cỏ. Dường như muốn chia sẻ sự vất vả của các thủy thủy, thỉnh thoảng trên mặt biển lại xuất hiện những đàn cá chuồn bay trên mặt nước, tạo thành những dòng bọt trắng li ti muôn hình thù, trông thật vui mắt…

Còn cách Cồn Cỏ bao nhiêu hải lý? Mấy giờ thì đến Cồn Cỏ… những câu hỏi đó cứ cuốn lấy suy nghĩ của tôi. Với tôi, tuy là lần đầu tiên đến với Cồn Cỏ, nhưng từ lâu tôi đã xem Cồn Cỏ rất gần gũi, thân thương, chính như ngôi nhà của mình vậy. Tôi biết đến Cồn Cỏ qua bút ký “Tiếng gà trưa Cồn Cỏ” của nhà báo Quân đội Trần Hoài. Tôi biết đến Cồn Cỏ với anh hùng Thái Văn A trong những trang sách tuổi thơ. Tôi biết đến Cồn Cỏ trong tác phẩm báo chí “Nhà thơ Xuân Diệu với bài thơ dở dang về Cồn Cỏ” của cộng tác viên, người con quê hương Quảng Trị - Nguyễn Ngọc Chiến. Và cả khi mới tập tẹ vào nghề viết, tôi được nghe bác Trần Biên, người con xứ Thanh nhưng mến yêu quê hương Quảng Trị nên đã chọn vùng đất nơi biển Cửa Tùng “an cư, lạc nghiệp” kể cho nghe rất nhiều câu chuyện về Cồn Cỏ. Những đêm Cửa Tùng, trong sắc biển đầy ánh lân tinh, bác Trần Biên rủ rỉ kể về những con người Quảng Trị đã đội bom, hứng đạn chèo thuyền tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ… Và lần đầu tiên trong đời tôi đã viết truyện ngắn “Trở về”. Hình ảnh những người chồng, người cha, dũng cảm đội bom, hứng đạn chèo thuyền chở hàng tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ mà thịt nát, xương tan hòa vào sóng biển vì bom đạn giặc Mỹ theo lời kể của bác Trần Biên… đã kết nên một “mái chèo” – mái chèo bất tử - mái chèo của những linh hồn kiên trung hiện về với những người mẹ hóa đá vọng phu ngay tại mũi đá nhô ra biển Cửa Tùng (mà tôi gọi đó là Mũi Chờ). Thương nhớ chồng, mẹ đem mái chèo đắp thành ngôi mộ nơi Mũi Chờ. Đêm đêm mẹ dắt con đến đó, kể cho con nghe về người cha của mình… Cũng đêm đêm ngôi mộ như có những vì sao sáng nhấp nháy … dệt nên huyền thoại về những con người bất tử với Cồn Cỏ, với đất thép Vĩnh Linh “máu và hoa”…

Đảo Thép anh hùng sừng sững hiên ngang giữa biển trời Tổ quốc

Mười bốn giờ, chúng tôi thấy Cồn Cỏ như một con thuyền nhỏ màu xanh neo trên mặt biển. Lữ đoàn trưởng Trần Văn Chiến chỉ thị cho tàu chạy hết công suất. Cùng với Lữ đoàn trưởng, trong số các thủy thủ trên tàu 15-11-26, có nhiều người đã ra đảo Cồn Cỏ nhiều lần. Nhưng theo tâm sự của các anh thì lần nào các anh cũng hồi hộp và muốn được đặt chân lên đảo thật sớm như lần đến đầu tiên… Tôi đứng trên mạn tàu, mắt không rời nhìn về phía đảo. Vì sung sướng và hồi hộp nên tôi có cảm giác như tiếng nhịp đập từ trái tim mình còn lớn hơn cả tiếng máy tàu, tiếng sóng biển…

Cờ Tổ quốc trên đảo tung bay trong nắng gió quê hương

Mười lăm giờ bốn mươi lăm phút, con tàu dừng lại neo đậu cách đảo Cồn Cỏ vài trăm mét. Biển cả như thử thách lòng người, sóng dồn lên, đẩy chiếc ca nô vừa hạ thủy lên cao, rồi đột ngột thả xuống, hết sức nguy hiểm. Không chút do dự, Lữ đoàn trưởng Trần Văn Chiến bằng động tác từng trải của người đi biển nhanh chóng nhảy xuống cùng với đồng chí thợ lái giữ thăng bằng để cán bộ, thủy thủ trên tàu chuyển sang chiếc ca nô di chuyển vào bờ…

Chiếc ca nô chòng chành trong sóng nước Cồn Cỏ đưa chúng tôi lên thăm đảo

Thấy chiếc ca nô nhỏ không thể chở hết số người chờ lên đảo, chiếc thuyền của ngư dân đang chạy hết công suất để kịp giờ ra khơi đánh cá đã bẻ lái cập mạn tàu 15-11-26 hỗ trợ. Tôi lên chiếc thuyền của ngư dân. Con thuyền đè sóng, chốc lát đã cập bến âu tàu. Lúc này, tôi và các thủy thủ mới chợt nhớ và hỏi tên hai người ngư dân trên chiếc thuyền cá. Đáp lại lời chúng tôi, hai ngư dân cười thật hiền, tiếng nói hòa theo tiếng sóng, hẹn gặp lại các chú bộ đội, chúng tôi đi để kịp giờ thả lưới… Người Quảng Trị là vậy đó, đã giúp ai là giúp thiệt tình, chẳng tính toán thiệt hơn.

Thiếu tá Trần Văn Luận, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Hỗn hợp đảo Cồn Cỏ
giới thiệu với cán bộ, thuyền viên Lữ đoàn bức tranh tường do đoàn viên thanh niên Tỉnh đoàn Quảng Trị vẽ tặng đảo

Giây phút đặt chân lên đảo Cồn Cỏ, tôi như được trở về ngôi nhà thân yêu, nơi “chôn nhau, cắt rốn” của mình sau bao năm tháng xa cách. Quân dân trên đảo dón chúng tôi bằng những cái nắm tay, cái ôm thật chặt. Từ người dân đến người lính đảo đều có màu da nâu đậm chất sóng gió biển khơi, nhưng ánh mắt, nụ cười của họ thì tỏa sáng dưới nắng chiều lấp loáng. Tôi biết, nắng gió nhuộm nâu màu da người để cùng với con người chắt chiu, gìn giữ cho Cồn Cỏ xanh mát một màu xanh bình yên.

Đoàn công tác dâng hoa, dâng hưởng tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh bảo vệ đảo

Cùng quân dân trên đảo, chúng tôi đến dâng hoa, dâng hương ở Danh bia liệt sĩ đảo Cồn Cỏ. Hai bên con đường dẫn lên bia ghi danh, mặc dù cây cối đã phủ kín, nhưng vẫn không che lếp hất dấu tích của những hố bom, đạn hằn sâu trên mặt đất… Thiếu tá Trần Văn Luận, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Hỗn hợp đảo Cồn Cỏ xúc động giới thiệu: Danh bia của đảo được xây dựng trên điểm cao 37, nơi đây được ví như chiếc mũi tàu hứng đạn, hứng bom trong những năm tháng chiến tranh… và nơi đây lực lượng bảo vệ đảo cũng hy sinh nhiều nhất… Phần lớn điểm cao 37 là đất đỏ ba zan (các nơi khác trên đảo đều chủ yếu là đá) nên khi bộ đội diễn tập, lúc xây dựng hầm hào công sự thường nhặt được những mảnh bom trộn lẫn trong đất. Anh em đem mảnh bom nhặt được rèn thành cuốc xẻng (tốt, bền không có loại vật liệu nào sánh bằng) để cải tạo đất đá trồng cây, trồng rau trên đảo Cồn Cỏ…

Chỉ huy đảo giới thiệu toàn cảnh đảo nhìn từ Đài tưởng niệm liệt sĩ

Danh bia Liệt sĩ đảo Cồn Cỏ, những dòng chữ như rực cháy dưới nắng chiều. 30 liệt sĩ quê hương Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị trực tiếp chiến đấu, hy sinh trên đảo. 74 liệt sĩ là bộ đội, dân quân phục vụ chiến đấu bảo vệ đảo hy sinh đều là những người con của đất thép Vĩnh Linh. Đọc những dòng chữ trên bia, nhiều người trong đoàn không cầm được nước mắt và càng xúc động hơn khi chúng tôi được biết, hài cốt các liệt sĩ chiến đấu, hy sinh bảo vệ đảo Cồn Cỏ đều được đưa về an táng yên nghỉ tại quê nhà, nhưng trong đó, vẫn còn không ít các liệt sĩ không tìm thấy hài cốt. Thịt, xương của các anh đã hóa thành sóng biển quê hương, đêm ngày hát ru khúc tráng ca bất tử…

Mang theo niềm xúc động khôn nguôi, chúng tôi đến điểm cao 63. Đoàn vừa đến lưng chừng con dốc, bỗng nghe tiếng hát cất lên hùng tráng, thiết tha: Sừng sững chòi cao trên hòn đảo nhỏ/ Như ngọn hải đăng bốn mùa sóng gió/ Thái Văn A, Thái Văn A đứng đó/ Yêu đảo như quê giây phút chẳng rời… Dù đạn réo, bom rơi bên mình anh/ Dù trời rung đất chuyển chòi ngả nghiêng/ Đôi mắt thần vẫn hướng cho đồng đội/ Diệt quân thù đang lao tới/ Cùng đội ngũ hiên ngang giữ đảo Thép/ Cồn Cỏ vẫn vững vàng một niềm tin/ Thái Văn A chiến đấu kiên cường/ Đảng ở bên anh người chiến sĩ anh hùng.

Đại úy Lê Việt Hùng, Chính trị viên Tiểu đoàn hỗn hợp giới thiệu chòi canh trên điểm cao 63
nơi Anh hùng Thái Văn A quan sát máy bay địch với chiến sĩ mới ra đảo công tác

Nhiều người trong đoàn thốt lên, đó là bài hát “Thái Văn A đứng đó” của nhạc sĩ Văn An. Giai điệu tự hào của bài hát giục dã, thôi thúc bước chân chúng tôi đi nhanh đến nơi điểm cao nhất của đảo Cồn Cỏ. Ở nơi đó, bên cạnh chiếc thang nối lên tận ngọn cây bàng vuông cao vút có một chiến sĩ tuổi đời còn rất trẻ đang say sưa đứng hát giữa đồng chí, đồng đội của mình… Cùng đi với đoàn, đồng chí Trung tá Trần Văn Sơn, Chỉ huy phó - Tham mưu trưởng Ban CHQS huyện đảo Cồn Cỏ nói với chúng tôi: Đây là giờ học ngoại khóa tìm hiểu truyền thống của những chiến sĩ mới ở đất liền vừa được biên chế ra đảo… Không chỉ có bộ đội, mà những người dân khi bắt đầu cuộc hành trình sống, học tập, công tác ở đảo đều được Ban CHQS huyện đảo mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ chính trị ở Tiểu đoàn Hỗn hợp tổ chức các buổi ngoại khóa, giới thiệu về truyền thống đảo nhỏ anh hùng. Địa điểm này là nơi anh hùng Thái Văn A, người chiến sĩ trinh sát dũng cảm đứng trên chòi cao xác định vị trí máy bay, tàu chiến của địch để thông báo cho quân ta nổ súng. Dù có lúc bom, đạn địch trút xuống như mưa trên Điểm cao 63 làm cho chân đài quan sát bị gãy, đài bị nghiêng, bản thân nhiều lần bị thương, Thái Văn A vẫn không rời vị trí. Trung tá Sơn còn kể cho chúng tôi nghe về người chiến sĩ vừa cất cao tiếng hát: Người chiến sĩ ấy, quê ở huyện Hướng Hóa, nơi bản nhỏ giữa núi rừng Trường Sơn, yêu Cồn Cỏ, thuộc các bài hát về Cồn Cỏ từ nhỏ nên đã tình nguyện đi bộ đội, tình nguyện ra đảo công tác…

Chúng tôi cuốn theo tiếng hát của người chiến sĩ, lời kể của Trung tá Sơn cho đến khi có một chàng trai, hai cô gái xuất hiện. Mồ hôi thấm đẫm trên ba khuôn mặt trẻ măng, các cô gái, chàng trai ấp úng nói lời xin lỗi và giải thích, chúng cháu nghe bài hát về anh hùng Thái Văn A hay quá, nên cố gắng chạy thật nhanh để đến đây. Nghe giọng nói của người miền Bắc, chúng tôi biết các cô gái, chàng trai đến từ nơi xa… Lời kể của Đại úy Lê Việt Hùng, Chính trị viên Tiểu đoàn Hỗn hợp về truyền thống đảo Cồn Cỏ như lời thuyết minh của những thước phim quay chậm, các cô gái, chàng trai chăm chú nghe, chăm chú viết, quên cả cái nóng, cái mệt của một quãng đường dài chạy đua leo dốc…

Giờ huấn luyện của cán bộ, chiến sĩ trên đảo

Sau đó, cùng trên hành trình đi thăm đảo, chúng tôi được biết chàng trai là Vũ Tiến Duy quê ở Nam Định, cô gái Nguyễn Ngọc Mai Ly quê ở Hà Giang, cô gái Hà Thị Quyên quê ở Hải Phòng, tất cả vừa tốt nghiệp đại học, tuy quê quán khác nhau, học trường khác nhau nhưng gặp nhau ở tình yêu với đảo Cồn Cỏ, thế là kết bạn, vượt một chặng đường dài đến nơi đây… Dịp chúng tôi đến, Cồn Cỏ cả tháng trời không có mưa, nắng nóng như thiêu như đốt, đêm về ở nhà khách trên đảo, nước sinh hoạt chảy ra từ những chiếc vòi chậm rãi, mặn như nước muối… Khó khăn, khắc nghiệt là thế mà các cô gái, chàng trai vẫn ra đảo, ở trên đảo dài ngày, mới biết tình yêu của họ đối với đảo Cồn Cỏ lớn biết nhường nào.

Với cán bộ, chiến sĩ trên đảo, vệ sinh làm sạch bãi biển chính là góp phần bảo vệ biển đảo quê hương

Trong chiến tranh, bằng tình yêu tha thiết, cha anh đã không tiếc máu xương làm nên một Cồn Cỏ “nở đầy hoa chiến thắng”. Nối tiếp cha anh, trong thời bình với tình yêu của mình quân dân nơi đây đang bằng nhiều cách làm cụ thể để bảo vệ đảo Cồn Cỏ, “hòn ngọc xanh” xứ Quảng. Mỗi bước chân hành trình trên đảo, chúng tôi biết thêm rằng: Cứ sau một ngày đêm, lớp lớp sóng gió biển khơi lại mang vào ghềnh đá của đảo hàng trăm thứ rác. Không để rác làm xấu, làm hỏng Cồn Cỏ, chiều chiều, quân dân trên đảo lại tỏa đi các ghềnh đá để nhặt, phân loại rác, làm sạch đảo hàng ngày. Rồi đến chuyện bảo vệ từng cái cây, con cua đá trên đảo. Khách lạ, khách quen lên thăm đảo, gặp ai cũng nhắc nhở nhau về việc cùng chung tay, góp sức bảo vệ môi trường. Và có một điều không thể thiếu là việc “truyền lửa” cho con trẻ tình yêu biển đảo từ lúc tuổi còn thơ. Trẻ em sinh ra từ các hộ dân tình nguyện ra đảo sinh sống. Trẻ em theo mẹ ra thăm bố công tác ở trên đảo… Để các em có chỗ tắm mát an toàn, quân dân trên đảo đã tìm nơi thích hợp, xếp dọn đá lớn tạo thành vũng nước trong lành và đặt tên là “Sông Hương của Cồn Cỏ”. Những chiều hè nóng nực, có nhiều trẻ em nô đùa tắm mát, tiếng cười vui hòa theo tiếng sóng, rộn ràng một vùng phía Đông đảo nhỏ. Vừa ngâm mình trong làn nước biển trong vắt, các cháu vừa được các chú bộ đội kể về truyền thống đảo Cồn Cỏ và ở phía xa ngoài kia là Hoàng Sa, Trường Sa… để khi lớn lên các cháu sẽ tiếp bước cha anh giữ gìn từng tấc biển thiêng liêng khi “Tổ quốc gọi tên mình”.

 

Đoàn công tác giao lưu bóng chuyền với cán bộ, chiến sĩ trên đảo

Đêm trên đảo Cồn Cỏ, những cơn gió khoáng đạt từ biển khơi, đung đưa cây lá, lung linh, ảo diệu dưới ánh điện. Ngồi quây quần trò chuyện với quân dân và những người khách ngay dưới Cột cờ Tổ quốc, tôi chợt nhớ tới những câu thơ của nhà thơ Hồ Khải Đại, người đã từng là phóng viên Báo Quân khu Bốn, người mà thế hệ chúng tôi xem như người ông, người cha đáng kính viết về Cồn Cỏ trong những năm hừng hực khí thế chống Mỹ, cứu nước: “… Sóng gọi hồn tôi về đảo nhỏ kiên cường/ Cồn Cỏ ta ơi chiến hạm nổi lên bốn bề sóng gió/ Những trái tim như ngọc sáng ngời".  

Chỉ huy Lữ đoàn 873 tặng quà cán bộ, chiến sĩ đảo Cồn Cỏ

Cồn Cỏ của hôm qua, Cồn Cỏ của hôm nay, Cồn Cỏ của mai sau, mãi mãi “nở đầy hoa chiến thắng”, mãi mãi là “đảo Thép anh hùng” bởi luôn có “Những trái tim như ngọc sáng ngời”. Với mình, tôi gửi trọn tình yêu với đảo, để dẫu lần đầu hôm nay và các lần sau này đến đảo, tôi luôn thấy đó là sự trở về - về với Cồn Cỏ như về với nơi “chôn nhau, cắt rốn” của tôi.

Cồn Cỏ, tháng 6 năm 2019

Ghi chép của HỒ LĨNH


Tác giả: HỒ LĨNH
Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Bình luận, góp ý (0)

Chưa có phản hồi

Bạn cần đăng nhập để bình luận

Xem nhiều
Liên kết Website
Tỷ giá

Quân khu - Quân chủng
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội