95 năm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Từ dấu mốc 18/11 đến mốc son Mặt trận Việt Minh...
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 95 năm qua thực sự là cầu nối hội tụ và lan toả tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Từ Án nghị quyết về vấn đề phản đế, Hội Phản đế đồng minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay) ra đời. Ngày 18/11/1930 năm ấy trở thành dấu mốc lịch sử...
Từ Hội Phản đế Đồng minh…
Nhận diện rất rõ sức mạnh của đại đoàn kết, tháng 2/1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngay trong “Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt”, Đảng đã vạch ra yêu cầu phải tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh mọi nhân tố của dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp chung giải phóng dân tộc.

Tháng 11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ thị nhắc lại đường lối chiến lược và sách lược mà Luận cương cách mạng tư sản dân quyền của Đảng đã nêu rõ: Nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải kết hợp chặt chẽ với nhau, công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, công nhân phải liên minh chặt chẽ với nông dân thì cách mạng mới thắng lợi, nếu giai cấp công nhân không tổ chức được toàn dân thành một lực lượng thật rộng, thật vững thì cách mạng cũng khó thành công.
Ngày 18/11/1930, Hội Phản đế đồng minh ra đời, là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói ngày 18/11/1930 là dấu mốc khởi đầy, đánh dấu sự ra đời của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam-Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay. Do tính chất và yêu cầu của cách mạng, ở mỗi thời kỳ, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam có các hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau: Phản đế Liên minh (1935), Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương (1936) và Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1938), Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (1939) đảm đương được những nhiệm vụ cao cả, trọng đại mà lịch sử giao phó.
Cụ thể, từ khi thành lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng Minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hội đã là nơi phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc ta, nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước của mọi người Việt Nam, đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận thành một lực lượng hùng mạnh để đánh đuổi bè lũ thực dân, đế quốc, giành lại độc lập cho Tổ quốc, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Tháng 3/1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất của Đảng thông qua Nghị quyết về công tác Phản đế Liên minh. Nghị quyết xác định các nhiệm vụ cần thiết trước mắt: lập tức tổ chức ra các Hội Phản đế Liên minh, đảng viên phải vào Hội, mở rộng tổ chức Hội tới các cấp toàn Đông Dương, lôi kéo rộng rãi các tổ chức, cá nhân có tính chất phản đế phải liên kết cuộc vận động Phản đế Liên minh vốn có những khẩu hiệu chung tuyên truyền lớn lao với các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày. Phải ra báo và tài liệu riêng cho Phản đế Liên minh; cần sửa đổi những sai sót về tôn chỉ, điều lệ, các hình thức tổ chức Phản đế liên minh của các đảng bộ.
Những năm 1936-1939, tình hình thế giới diễn biến mau lẹ, phức tạp. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần. Sau khi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII trở về, Đoàn Đại biểu Đảng ta cùng với Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị (tháng 11/1936) xác định mục tiêu chủ yếu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Đảng quyết định tạm thời chưa nêu khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày”, đồng thời chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương tập hợp các lực lượng toàn Đông Dương vào cuộc đấu tranh chống đế quốc.
Tháng 3/1938, để phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đổi tên thành Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Nhờ có chính sách Mặt trận đúng đắn, có phương pháp vận động khôn khéo, phương pháp đấu tranh linh hoạt nên Mặt trận đã tập hợp, đoàn kết rộng rãi các giai tầng xã hội như công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ tư sản nhỏ, đồng thời còn bắt tay với các đảng phái cải lương, kể cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương nhằm chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.
Ngày 1/9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, tháng 9/1940 phát xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp thỏa hiệp với phát xít Nhật, thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ chống chiến tranh của nhân dân ta. Tháng 11/1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế, nhằm tập hợp hết thảy những lực lượng phản đế, phản phong kiến ở Đông Dương đánh đổ đế quốc Pháp – phát xít Nhật và bè lũ tay sai phản lại quyền lợi dân tộc. Nhờ những chủ trương đúng đắn đó, các tổ chức phản đế nhanh chóng được phát triển, Mặt trận được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân.
"Mặt trận Việt Minh"- Mốc son chói lọi
Mốc son chói lọi trong lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam là việc thành lập Mặt trận Việt Minh. Hội nghị Trung ương lần thứ VIII tháng 5/1941 của Đảng ở Pác Bó (Cao Bằng) được xem là sự kiện đặc biệt quan trọng đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng, khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Và sự chỉ đạo chiến lược ấy nằm ngay từ quyết định thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) “nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, trẻ già, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.

Từ quyết định ấy, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh đã ra đời. Mặt trận Việt Minh lấy lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm huy hiệu, khẩu hiệu chính là: phản Pháp - kháng Nhật - liên hoa - độc lập.
Ngày 25/10/1941, Tổng bộ Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ, nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình: “Liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật, Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
“Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị”- điều lệ Việt Minh ghi rõ.
Điều đặc biệt là, cùng với việc công bố Tuyên ngôn, Điều lệ, Mặt trận Việt Minh cũng xác định cụ thể chương trình cứu nước với hai mục tiêu rõ ràng: 1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do. Chương trình gồm 44 điểm, sau được đúc kết lại thành “Mười chính sách của Việt Minh” và phổ biến trong Nhân dân, dễ hiểu, dễ nhớ: “Việt Nam độc lập đồng minh/ Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây/ Quyết làm cho nước non này/ Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền/... Chúng ta có Hội Việt Minh/ Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh/... Khuyên ai nên nhớ chữ đồng/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”.
Thực tế phong trào cách mạng đã cho thấy, thành lập Mặt trận Việt Minh là một quyết định sáng suốt thời điểm đó khi đáp ứng đúng yêu cầu cấp thiết của phong trào đấu tranh cách mạng đang lên cao như triều dâng, thác đổ.

Kể từ khi Mặt trận Việt Minh ra đời, như khẳng định trong cuốn “Cách mạng tháng Tám của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương”, “toàn bộ phong trào chống phát xít Pháp - Nhật của nhân dân ta mang tên là Phong trào Việt Minh, cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, chí quật cường của dân tộc ta”.
Sức mạnh và vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh được thể hiện ở khả năng lôi cuốn và tập hợp lực lượng quần chúng đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Khẩu hiệu của Việt Minh, với tinh thần phản Pháp, kháng Nhật, liên Hoa, độc lập, Việt Minh lấy làng, đường phố, nhà máy làm cơ sở tổ chức và thu hút các đoàn thể tham gia đánh Pháp, đuổi Nhật; với tên gọi (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, v.v..), trong đó, có khẩu hiệu: “Kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minh và đoàn kết đánh đuổi Nhật - Pháp” nổi tiếng: “ĐỒNG BÀO! Dịp tốt sắp đến! Mau đoàn kết lại! Gia nhập Việt - Minh! Việt Nam độc lập đồng minh, đánh đuổi Nhật Pháp! tiêu trừ Việt gian! Việt - Nam độc lập! VIỆT MINH”, đã thu hút mọi giai tầng, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị, giai cấp tham gia Mặt trận với tinh thần yêu nước và đoàn kết, để chiến đấu giành độc lập cho xứ sở.
Lực lượng và sức mạnh của khối toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh được xây dựng rộng rãi và chặt chẽ chưa từng có trong cả nước.
Tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa.
Ngày 15/3/1945, Việt Minh ra lời kêu gọi kháng Nhật cứu nước: “...Tiến lên! Xông tới! Cứu nước, cứu nhà! Lấy máu đào rửa hận cho Tổ quốc...”
Ngày 25/3/1945, Việt Minh phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước trên khắp cả nước.
Ngày 14/8/1945, Tổng bộ Việt Minh ra lời Hiệu triệu quốc dân đồng bào nêu rõ: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh... Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân Giải phóng Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đổi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân!... Thắng lợi nhất định sẽ về ta!”
Cả nước đã nhất tề đứng dậy tổng khởi nghĩa theo hiệu triệu của Việt Minh. Sáng ngày 19/8/1945, theo lời kêu gọi và thực hiện Chỉ thị của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng với hàng nghìn nông dân, công nhân, dân nghèo, bằng những vũ khí thô sơ, cùng với hàng vạn quần chúng nhân dân ở khu vực ngoại thành kéo vào, xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố.
Chỉ trong vòng 12 ngày, từ ngày 14 đến ngày 25/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngọn cờ của Việt Minh, hơn 20 triệu nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân, trở thành cuộc tập hợp lực lượng khổng lồ mà truớc đó chưa từng có ở Đông Dương.
Như khẳng định của TS Nguyễn Viết Chức: “Cách mạng Tháng Tám thành công để lại nhiều bài học. Bài học quan trọng nhất chính là Đảng đã giao trách nhiệm lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên giành chính quyền cho “người cộng sự” của mình- đó là Mặt trận Việt Minh”.
Theo congluan.vn



