Chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Cục Chính trị Quân khu 4 (16/12/1945 – 16/12/2025)

A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

CỤC CHÍNH TRỊ QUÂN KHU 4 RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính quyền cách mạng thành lập chưa được bao lâu, ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ. Ở miền Bắc, quân Tưởng tràn vào với chiêu bài giải giáp quân Nhật. Thực dân và bọn tay sai, phản động bắt tay nhau ra sức chống phá cách mạng nước ta.

Để đáp ứng yêu cầu chỉ đạo hoạt động tác chiến trên từng hướng chiến lược, ngày 15 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Chiến khu 4. Sau một thời gian ngắn làm công tác chuẩn bị, ngày 16/12/1945, Bộ Chỉ huy và các cơ quan Chiến khu, trong đó có Phòng Chính trị, được thành lập do đồng chí Trần Văn Quang làm Trưởng phòng và một số đồng chí cán bộ, nhân viên được điều động về từ cấp ủy các địa phương và các chi đội giải phóng quân.

Tháng 2 năm 1947, sau Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ nhất (14-16/02/1947), Phòng Chính trị Chiến khu 4 được kiện toàn gồm 5 ban: Văn thư, Tuyên huấn, Địch vận, Ban Công tác chính trị trung đoàn, Ban Công tác chính trị đại đội.

Cuối năm 1947, tình hình các lực lượng vũ trang ở Bình - Trị - Thiên cũng như Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thực hiện nhiệm vụ còn nhiều vấn đề cần phải rút kinh nghiệm. Tháng 11 năm 1947, Phòng Chính trị Khu 4 tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm tình trạng địa phương chủ nghĩa, tư tưởng chủ quan của cán bộ quân sự, chính trị ở mặt trận Bình - Trị - Thiên và tư tưởng thiếu chuẩn bị tích cực về lực lượng ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Với quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, Phòng Chính trị Khu 4 đã tổ chức đưa cán bộ xuống các đơn vị, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục làm cho bộ đội hiểu sâu sắc và thực hiện những nguyên tắc quân sự, tư tưởng chiến thuật trong tiến công, phòng ngự; tư tưởng tiến công là diệt nhiều địch, bắt tù binh, thu vũ khí...; bồi dưỡng lòng yêu nước, chí căm thù giặc, nắm chắc mười lời thề danh dự, 12 điều kỷ luật.

Học viên tốt nghiệp lớp đào tạo Chính trị viên cấp Đại đội đầu tiên của Liên khu 4, năm 1951.
Ảnh: TƯ LIỆU

 

Toàn Khu, từ cấp ủy, chỉ huy đến đảng viên, chiến sĩ đều xây dựng kế hoạch thi đua, đăng ký học tập, huấn luyện giỏi quân sự, kỹ chiến thuật. Các hình thức tuyên truyền, cổ động như báo tường, báo liếp, tập san, loa phát thanh, biểu diễn văn nghệ quần chúng, lửa trại... được tiến hành từ các trung đoàn đến các phân đội. Với khẩu hiệu “Đổ mồ hôi trên thao trường để chiến trường bớt đổ máu”, Cơ quan Chính trị Khu đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động công tác chính trị, lấy “luyện quân lập công” để thực hành nâng cao nghiệp vụ, trau dồi khả năng công tác cho đội ngũ cán bộ cũng như bộ đội.

Từ phong trào “luyện quân lập công” và thực tiễn chiến đấu, hoạt động tuyên truyền, báo chí, văn hóa văn nghệ trong lực lượng vũ trang Chiến khu đã phát triển sâu rộng. Cuối năm 1947, Bộ Chỉ huy Khu đã xây dựng và phát hành các báo “Cứu quốc”, “Kháng địch”, “Tiền tuyến”, “Tập san kỹ nghệ”, “Chiến sĩ vệ quốc”. Ở các đơn vị, địa phương cũng có các tờ báo riêng. Khu 4 những năm đầu kháng chiến chống Pháp đã trở thành “cái nôi” của văn nghệ kháng chiến trong cả nước.

Những năm đầu mới thành lập, đội ngũ cán bộ còn thiếu, yếu, hoạt động buổi đầu còn bỡ ngỡ, chưa thành nền nếp, song, quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, mà trực tiếp là Tổng Quân ủy, Khu ủy, Cơ quan Chính trị đã thực hiện đúng chức năng của mình, triển khai các hoạt động công tác chính trị trong lực lượng vũ trang Khu, tập trung củng cố tổ chức, cổ vũ tinh thần cho quân và dân trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 25/01/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 307/SL đổi tên các khu thành Liên khu, theo đó Khu 4 được đổi thành Liên khu 4. Tháng 4/1948, Phòng Chính trị Liên khu được kiện toàn theo Nghị quyết Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ nhất và Nghị quyết Hội nghị Quân sự, Chính trị Liên khu, gồm có 6 ban: Văn thư, Địch vận, Huấn luyện, Tuyên truyền, Báo chí, Văn nghệ.

Ngày 21/5/1949, Hội nghị cán bộ quân đội Liên khu 4 mở rộng quyết định sáp nhập Phòng Chính ủy vào Phòng Chính trị, theo đó các cơ quan chuyên môn phụ trách công tác đảng cũng được sáp nhập vào Phòng Chính trị. Tháng 9 năm 1950, thực hiện Nghị quyết Đại hội Quân chính Liên khu 4, tổ chức Phòng Chính trị Liên khu gồm có: Trưởng phòng, Phó phòng và các ban: Tuyên huấn, Cán bộ, Địch vận và Tổ Quản trị.

Cuối năm 1949, đầu năm 1950, bước vào thời kỳ chuyển mạnh sang tổng phản công, thực hiện những chiến dịch đánh địch quy mô vừa và nhỏ, phối hợp với các chiến trường. Bám sát nhiệm vụ cách mạng, Phòng Chính trị Liên khu tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động công tác đảng, công tác chính trị chuyển dần và phát triển một cách toàn diện hơn, bảo đảm thực hiện phương châm chiến lược, chiến thuật đón thời cơ đẩy mạnh cuộc kháng chiến.

Nổi bật là những thành công trong chỉ đạo hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong Chiến dịch Xuân - Hè ở Phân khu Bình - Trị - Thiên, với phương châm công tác: giữ vững đoàn kết nội bộ giữa 3 lực lượng, bảo đảm sử dụng và tác chiến; giữ vững đoàn kết và phối hợp công tác dân - quân - chính; giữ vững tinh thần, truyền thống quyết thắng cho bộ đội. Đi vào 3 bước: trước, trong và sau chiến dịch.

Trong đó, chỉ đạo chấn chỉnh các cơ quan chính trị như: các tiểu ban Tuyên truyền, Nhiếp ảnh, Ấn loát, Báo chí, Văn nghệ…; tăng thêm phương tiện, cán bộ. Công tác chuẩn bị các phương tiện hết sức đầy đủ và tỉ mỉ, các dụng cụ phải sắp xếp tiện cho lưu động, vận động hết khả năng sáng tác của đội ngũ văn nghệ, bám sát chiến dịch để sáng tác, cho in ấn các khẩu hiệu, truyền đơn, áp phích tuyên truyền cho chiến dịch.

Từ năm 1951 đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Cơ quan Chính trị Liên khu 4 tiếp tục phát triển và có bước trưởng thành vượt bậc. Các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang ngày càng đi vào chiều sâu, toàn diện, cùng với chính quyền địa phương động viên nhân dân vùng bị chiếm đóng thực hiện tiêu thổ kháng chiến, không hợp tác với địch, kiên quyết khắc phục mọi khó khăn, nêu cao tinh thần “Quảng Bình quật khởi”, “Quảng Trị kiên cường”, “Thừa Thiên anh dũng”; từ những đội du kích nhỏ bé trong Cách mạng Tháng Tám đã tiến lên xây dựng được lực lượng vũ trang 3 thứ quân; tập trung giải quyết đồng bộ về tư tưởng và tổ chức; xây dựng ý chí chiến đấu, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp.

Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh tích cực ủng hộ kháng chiến, phát huy vai trò hậu phương chiến lược, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ “phản đế”, “phản phong”, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, huy động sức người, sức của cho các chiến trường với quyết tâm “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”.

Sau chín năm hoạt động (1945-1954), đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy Phòng Chính trị cơ bản ổn định, các ban trong phòng tiếp tục được củng cố, bổ sung lực lượng, thông qua bồi dưỡng, đào tạo và tích lũy kinh nghiệm công tác qua từng giai đoạn, chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng lên về mọi mặt.

Trong thực hiện nhiệm vụ, lãnh đạo, chỉ huy Phòng đã chỉ đạo cơ quan với phương châm vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, bám sát chủ trương, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ lực lượng vũ trang Liên khu, gắn chặt với thực tiễn địa bàn, tạo bước trưởng thành phát triển toàn diện với chất lượng ngày càng cao.

Đối với hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, đã tập trung giáo dục, động viên chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, củng cố lập trường quan điểm cho bộ đội theo đường lối kháng chiến của Đảng “trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”; củng cố, kiện toàn đảng ủy các cấp theo hệ thống dọc từ Tổng Quân ủy xuống chi bộ, thực hiện cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; tham mưu cho Bộ Tư lệnh Liên khu bồi dưỡng, đào tạo, sắp xếp đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu chiến đấu trên cả ba mặt trận: Bình - Trị - Thiên, Thanh - Nghệ - Tĩnh và quân tình nguyện ở Lào; tiến hành công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đấu tranh phòng chống tội phạm, chống biệt kích gián điệp, chống luận điệu phản tuyên truyền, xuyên tạc đường lối cách mạng, kháng chiến.

Đầu năm 1953, khi Bộ rút chủ lực ra củng cố, lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên gặp không ít khó khăn, gian khổ do thiên tai lũ lụt, mất mùa, đói kém, địch tập trung càn quét bình định. Phòng Chính trị đã tập trung chỉ đạo củng cố tư tưởng và tổ chức, xác định rõ nhiệm vụ, đưa bộ đội vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chống càn, chống bắt lính, thi hành chính sách ruộng đất, chống mọi luận điệu phản động, xuyên tạc, góp phần bảo vệ và mở rộng căn cứ du kích, phát triển chiến tranh du kích rộng khắp, phối hợp chiến trường chính.

Trong Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ, Phòng Chính trị phối hợp với các cơ quan, các địa phương tập trung chỉ đạo động viên sức người, sức của; tổ chức lực lượng chi viện cho các chiến trường; kịp thời động viên cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ quốc tế đặc biệt trong Chiến dịch Trung Lào; đẩy mạnh tác chiến ở Bình - Trị - Thiên.

Với những nội dung tham mưu kịp thời, thiết thực, sự chỉ đạo sát sao của Phòng Chính trị Liên khu, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang Liên khu ngày càng được phát huy toàn diện, đạt hiệu quả thiết thực, thực sự góp phần to lớn phát huy nhân tố chính trị tinh thần, nâng cao chất lượng chính trị tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang toàn Liên khu; trực tiếp đánh bại quân xâm lược trên địa bàn Liên khu; cùng bạn giành thắng lợi tại Mặt trận Trung Lào; huy động nhân tài, vật lực cho Chiến dịch Điện Biên Phủ; góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

VŨ HOÀNG (trích lược)


Các tin khác

Tin đọc nhiều