Thiếu tướng Hoàng Đan và những bức thư gửi vợ
Tại Bảo tàng Quân khu 4, những lá thư tay của vợ chồng Thiếu tướng Hoàng Đan được trưng bày trang trọng trong không gian “Hậu phương anh hùng”. Đọc những lá thư ấy mới cảm nhận hết được chiều sâu của tình cảm, sự thủy chung son sắt và nghị lực phi thường của những người lính trong chiến tranh. Giữa khói lửa bom đạn, những lá thư tay trở thành sợi dây kết nối liền tiền tuyến và hậu phương, gửi gắm nỗi nhớ, niềm tin và khát vọng cống hiến. Mỗi con chữ như một nhịp tim, thấm đẫm tình yêu lặng lẽ mà sâu xa, phản chiếu tinh thần của cả một thế hệ đã sống, chiến đấu và sẵn sàng hy sinh cho nhau, cho độc lập và tự do của dân tộc.
Hổ tướng xứ Nghệ
Thiếu tướng Hoàng Đan sinh ra ở xã Nghi Thuận, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An (nay là xã Diên Hoa, tỉnh Nghệ An) trong một gia đình có truyền thống hiếu học lâu đời, nhiều thế hệ đỗ đạt ra làm quan, làm thầy thuốc. Gia đình ông cả bên nội lẫn bên ngoại đều có nhiều người tham gia cách mạng. Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, qua sự giới thiệu của người thân, ông tham gia vào Mặt trận Việt Minh, tiếp nối truyền thống của gia đình.
Đầu năm 1946, ông được cử đi học Trường Quân sự Quân khu mới mở ở Nhượng Bạn, Hà Tĩnh và sau khi ra trường, ông về hoạt động ở Tiểu đoàn Đông Hà (Quảng Trị) thuộc Trung đoàn Tiếp phòng quân đóng ở Bình-Trị-Thiên lúc bấy giờ. Trong suốt 50 năm trong quân ngũ, ông đã qua nhiều đơn vị, nhiều cương vị khác nhau, từ trung đội trưởng cho đến Phó Giám đốc Học viện Quân sự cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng); Tư lệnh Quân đoàn, kiêm Tư lệnh Mặt trận Lạng Sơn; Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 1; Cục trưởng Cục Khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng… Đồng chí Hoàng Đan từng có mặt, trực tiếp chiến đấu ở các chiến trường ác liệt nhất trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược đến cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc...

Trong các trận đánh mà Hoàng Đan tham gia thì trận đánh vào Thượng Đức năm 1974 (nay thuộc tỉnh Quảng Nam) đã ghi dấu tên tuổi của vị tướng tài ba này. Trận đánh này đã làm cho thế và lực của Quân đội Việt Nam Cộng hòa suy yếu hẳn. Trong trận Thượng Đức, nhằm tăng hiệu quả hỏa lực và tạo yếu tố bất ngờ, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 Hoàng Đan chỉ đạo bộ đội tháo rời pháo lớn, bí mật vận chuyển lên các điểm cao để bắn thẳng, trực tiếp tiêu diệt các hỏa điểm và đồn địch. Chiến thuật táo bạo này giúp quân ta nhanh chóng áp sát, đánh chiếm hoàn toàn chi khu Thượng Đức. Việc mất Thượng Đức khiến địch vô cùng cay cú, ráo riết tìm cách tái chiếm vị trí chiến lược này. Trước tình hình đó, Sư đoàn trưởng Hoàng Đan cho xây dựng hệ thống hầm chữ A nhằm bảo vệ bộ đội trước pháo kích của địch. Ông trực tiếp chui vào hầm, cho pháo bắn thử để khẳng định tính hiệu quả, tiếp thêm niềm tin cho toàn đơn vị.
Sau nhiều ngày giằng co quyết liệt, quân ta kiên cường giữ vững trận địa, đập tan mọi đợt phản kích của địch. Cuối năm 1974, địch buộc phải rút chạy, ta thừa thắng tiến công, giải phóng vùng Đại Lộc. Chiến thắng Thượng Đức không chỉ giữ vững một vị trí then chốt mà còn tạo bàn đạp quan trọng cho chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, góp phần vào thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Với những công lao to lớn, xuất sắc trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, năm 2014, Thiếu tướng Hoàng Đan đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân - xứng danh là một “hổ tướng” trong hàng ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tình yêu qua những lá thư xa
Câu chuyện tình yêu của Thiếu tướng Hoàng Đan và vợ - bà Nguyễn Thị An Vinh, là những tháng ngày dài trong xa cách và nhớ thương vì nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Nhưng đọng lại trong đó là tình yêu thủy chung, ý chí kiên cường và niềm tin tuyệt đối vào ngày chiến thắng không xa…
Bà Nguyễn Thị An Vinh sinh ra trong một gia đình nghèo ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Lên 8 tuổi bà đã phải đến ở nhờ nhà chị họ của ông Hoàng Đan. Cô bé An Vinh thông minh, lanh lợi được bác rất quý mến và cho đi học đầy đủ để làm gương cho các con. Không phụ sự tin tưởng và kỳ vọng ấy, An Vinh rất có ý chí phấn đấu và luôn học giỏi. Chính trong hoàn cảnh khó khăn, hai người gặp gỡ, làm quen và nhanh chóng có cảm tình với nhau. Trong những tháng ngày xa cách đằng đẵng, ngoài những lần gặp mặt trực tiếp ít ỏi, họ không có phương tiện liên lạc gì khác ngoài những bức thư. Xa nhau là thế nhưng tình cảm của ông bà luôn đầy ắp thương yêu. Bao nhiêu nhớ nhung, mong mỏi đều được ông bà giãi bày bằng những lá thư tay. Có thời điểm không nhận được thư hồi âm từ đối phương, cả hai vẫn viết cho nhau như một cách để giữ trọn vẹn sự gắn kết tình cảm và niềm tin dành cho nhau.

Tình yêu ấy không chỉ là sự gắn bó cá nhân, mà còn là nguồn động lực để mỗi người vững vàng hơn trước khó khăn, gian khổ. Sau này, khi đã về chung một mái nhà, ông vẫn giữ thói quen viết thư cho vợ con. Trong các bức thư, ông thăm hỏi từng thành viên trong tổ ấm của mình, khích lệ các con học tập tốt, để trở thành người có ích cho xã hội, phục vụ cho tương lai của bản thân; căn dặn vợ giáo dục con cái, xây dựng gốc rễ đạo đức từ nền tảng gia đình. Ngoài ra, ông còn báo tin tức nơi chiến trường và động viên vợ an tâm công tác, cùng chồng thi đua nơi tiền tuyến.
Trong thư gửi vợ ngày 18/6/1973, ông có viết: “Em Vinh ạ, cho đến bây giờ chúng ta mới giải phóng được một phần miền Nam thôi, chúng ta đã đánh cho Mỹ cút nhưng Nguỵ chưa nhào. Cuộc chiến đấu để giải phóng miền Nam đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu một thời gian nữa, mặc dầu chúng ta đã chiến đấu gần 30 năm rồi. Anh tự nghĩ và cũng phải làm cho cán bộ nghĩ như vậy và hạnh phúc cho thế hệ sau, chúng ta phải hy sinh thế hệ này. Thế hệ chúng ta chưa thể bàn đến hạnh phúc cụ thể được, chúng ta chỉ có hạnh phúc trong lý tưởng chiến đấu vì độc lập, vì tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc mai sau của các con…”.
.jpg)
Trong những lá thư, không chỉ thể hiện yêu thương, mà ông còn nhìn thấy trách nhiệm của mỗi người đối với vận mệnh của dân tộc. Trong từng trang thư, ông không chỉ gửi gắm nỗi nhớ mà còn truyền đi bản lĩnh cách mạng, lý tưởng sống, khát khao cống hiến và một niềm tin sắt đá vào thắng lợi sau cùng. Đó cũng chính là một phần của hiện thực sinh động về cuộc chiến tranh ác liệt, về tình yêu Tổ quốc đến mức quên mình, qua đó cũng khơi lại nhiều cảm nhận sâu sắc về một thời bom đạn đã lùi vào quá khứ từ hơn 50 năm qua.
Trong mỗi bức thư gửi về hậu phương, Thiếu tướng Hoàng Đan luôn dành những lời hỏi han đầy ân cần: Vợ con có khỏe không, các con học hành thế nào, có ngoan ngoãn không. Những cánh thư của ông không chỉ là lời động viên, nhắn nhủ vợ con yên tâm công tác, để ông vững vàng tay súng, vượt qua gian khổ, quyết tâm chiến đấu đến ngày chiến thắng, mà còn là sợi dây gắn kết tình cảm giữa tiền tuyến và hậu phương.
Lật giở từng trang thư đã ố vàng theo thời gian, từng chiếc phong bì gấp vội, nét chữ thân thương vẫn hiện lên rõ ràng như một phần ký ức sống động. Bức thư được viết vào ngày 17/6/1961: “Em và con có khoẻ mạnh không, bé Hồng có đau nữa không, anh muốn em cân và đo cho An, Hồng và em mỗi người bao nhiêu cân, cao bao nhiêu cho anh biết cụ thể... An dạo này đi học về có ngoan không, em có hay đánh An nữa không. Nó có hay nói chuyện cho em và Hồng nghe không?”.
Trong bức thư ngày 18/6/1973, ông viết: “Trong lúc anh đang nghĩ như vậy, nghĩ đến vì tương lai con em chúng ta mà con của chúng ta lại như vậy thành anh đâm cáu với em. Nay anh bàn thế này. Dứt khoát An không được bỏ học, chưa bàn chuyện đi bộ đội bây giờ, đi bộ đội cũng phải có văn hoá thì mới làm tròn nhiệm vụ bộ đội được, nếu nỏ bỏ học năm nay không hoàn thành lớp tám năm nay thì em cho nó vào chỗ anh ngay, anh giáo dục thêm cho nó và khoá học sau nó học lại lớp 8. Anh tin nó sẽ tiến bộ về tư tưởng…”.
Trong từng con chữ, ông không ngừng dõi theo cuộc sống của vợ con nơi hậu phương, từ những chi tiết nhỏ như cân nặng, chiều cao của từng đứa con đến việc chúng có ngoan ngoãn, nghe lời mẹ hay không. Ông lo lắng khi con đau, xót xa khi vợ vất vả và không giấu nổi sự nóng ruột khi con có biểu hiện lơ là chuyện học hành. Từ những bức thư ấy, có thể thấy, dù đang sống trong hoàn cảnh hiểm nguy giữa chiến trường, ông vẫn luôn hướng về gia đình, lấy vợ con làm động lực để tiếp tục chiến đấu. Những lời dặn dò của ông không chỉ thể hiện sự quan tâm mà còn là một cách giáo dục, gửi gắm ước mơ về tương lai cho con cái - một tương lai hoà bình, nơi tri thức và đạo đức được đặt lên hàng đầu.
Trong khi ông Hoàng Đan gửi gắm tình yêu và trách nhiệm qua những dòng thư từ chiến trường, thì những lá thư của bà An Vinh lại là những lời tâm sự của cuộc sống nơi hậu phương. Bà thường viết về tình hình sức khỏe, sự lớn khôn và học hành của các con, đặc biệt là nỗi nhớ nhung da diết bà dành cho chồng trong những tháng ngày xa cách.
Bên cạnh đó, bà cũng chia sẻ với ông về những nỗ lực của bản thân trong học tập, công tác và cống hiến cho đất nước - như một cách để đồng hành cùng chồng trên mặt trận tư tưởng và tinh thần. Chính những chia sẻ giản dị mà chân thành ấy đã giúp thu hẹp khoảng cách giữa hai người, kéo họ xích lại gần nhau hơn. Bởi lẽ, trước đó, giữa ông và bà từng có một khoảng cách không nhỏ về trình độ, gia thế và hoàn cảnh sống. Nhưng vượt lên tất cả, chính sự thấu hiểu, yêu thương và cùng hướng về lý tưởng chung đã gắn kết họ bền chặt, trở thành điểm tựa vững vàng cho nhau suốt cuộc đời.
Thư ngày 12/5/1961, bà viết: “Nhận thư anh viết ngày 1/5/1961, anh lo em gầy lắm phải không? Anh cứ yên tâm học tập, em sẽ bồi dưỡng cho béo. Công tác thì bận lắm, vừa làm việc, vừa chỉnh huấn văn hóa 1 tuần 3 buổi thứ 2, thứ 5 và tối chủ nhật, do đó không có thời gian rỗi, bận hơn anh ở nhà nhiều, ít khi em ở nhà lắm… anh cứ ăn uống cho đầy đủ, lấy sức mà học, không phải lo gì cho em cả, An vẫn khoẻ, dạo này đến trường không khóc nữa, nhưng nó vẫn buồn lắm, không chơi đùa gì cả, chỉ lúc về nhà mới chịu chơi thôi. Tình hình ở nhà không có gì thay đổi, thi đua công tác thì rầm rộ lắm. Lúc anh về có lẽ thay đổi nhiều”.
Xen giữa những dòng chia sẻ về công tác, gia đình bà vẫn dành một khoảng lặng cho tình yêu, khẳng định tình cảm thủy chung luôn là nguồn động lực để bà cố gắng vượt qua mọi vất vả: “Còn anh nói em yêu anh như thế nào? Em cũng chịu nói sao được, chỉ thấy yêu nhiều lắm, không giờ phút nào là không nghĩ đến anh, yêu anh nhiều lắm, chắc anh cũng biết chứ…”.
Dù đã nhuốm màu thời gian, những bức thư vẫn mang trong mình ý nghĩa vô cùng to lớn. Đó không chỉ là những tư liệu lịch sử quý báu, mà còn là di sản văn hóa và tinh thần sâu sắc. Chúng là những chứng tích sống động, kết nối quá khứ với hiện tại, thế hệ cha anh đi trước với lớp trẻ hôm nay. Mỗi trang thư không đơn thuần chỉ là câu chuyện tình yêu, tình cảm gia đình, mà còn là thông điệp thấm đẫm lý tưởng sống, khát vọng cống hiến và ý chí vượt qua gian khổ - những giá trị bất biến làm nên phẩm chất cao đẹp của người lính trong mọi thời đại.
TRÀ MY
Bình luận, góp ý (0)
Bạn cần đăng nhập để bình luận