TÌM HIỂU PHÁP LUẬT: Chế định cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định Bộ luật tố tụng năm 2015
Theo quy định của Bộ luật tố tụng năm 2015, các biện pháp ngăn chặn để đảm bảo giải quyết, xử lý các vụ án hình sự gồm (Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người đang bị truy nã; Tạm giữ; Tạm giam; Bảo lĩnh; Đặt tiền để bảo đảm; Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh). Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 123 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
Tại Điều 123 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, chúng ta thấy biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng đối với mọi loại tội phạm; người được áp dụng biện pháp này phải có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng, phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ và có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập. Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi địa phương thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó.
Trước đây chế định này được quy định rong Bộ luật ố tụng Hình sự năm 2003, tuy nhiên không quy định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú cũng không quy định khi nào hết thời hạn áp dụng biện pháp này. Do vậy, trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, sau khi Cơ quan điều tra ra lệnh áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì lệnh này sẽ tồn tại suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nếu không được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Do đó có trường hợp bị cáo sau khi xét xử xong vẫn còn lệnh này. Để khắc phục tình trạng đó, Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 đã bổ sung thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Cụ thể: Khoản 4 Điều 123 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 “Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”. Tức thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú trong giai đoạn điều tra do Cơ quan điều tra quyết định nhưng không được quá thời hạn điều tra; trong giai đoạn truy tố do Viện kiểm sát quyết định nhưng không được quá thời hạn truy tố và trong giai đoạn xét xử do Toà án quyết định nhưng không được quá thời hạn xét xử.
TRẦN QUANG HÙNG
(Viện Kiểm sát quân sự khu vực 41)
Bình luận, góp ý (0)
Bạn cần đăng nhập để bình luận