Chấp hành nghiêm mệnh lệnh, luyện hay, bắn giỏi, dũng cảm kiên cường, hiệp đồng chặt chẽ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Sau những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong những năm 1961-1964, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đã hoàn toàn bị phá sản. Để cứu vãn thất bại ở Việt Nam, trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh và chư hầu cùng trang bị hiện đại vào miền Nam nước ta, nâng tổng số quân Mỹ, ngụy và đồng minh lên tới hơn 1 triệu tên. Đồng thời, chúng thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới - căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương.

Để đáp ứng yêu cầu mới, Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập các trung đoàn pháo xe kéo - lực lượng có sức đột kích lớn, hỏa lực mạnh, cơ động cao, có khả năng chiến đấu dài ngày và tiêu diệt lớn quân địch. Với chủ trương đó, ngày 13/4/1966, tại khu vực Đền Thống, thôn Lũng Sâu, xã Đại Đình, huyện Tam Dương, tỉnh Phú Thọ (nay là xã Đại Đình, tỉnh Phú Thọ), Lữ đoàn Pháo binh 16 chính thức được thành lập với tên gọi ban đầu là Trung đoàn Pháo binh 16.
Những ngày đầu thành lập, Trung đoàn là đơn vị pháo binh dự bị chiến lược của Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng lực lượng để bổ sung cho chiến trường miền Đông Nam Bộ. Đến cuối năm 1966, trước yêu cầu cấp bách, Trung đoàn nhận lệnh hành quân đi chiến đấu với khẩu hiệu: “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 16 hăng hái lên đường giết giặc, lập công.
Với ý chí quyết tâm cao, cán bộ, chiến sĩ đã khắc phục khó khăn, vượt qua chặng đường đầy gian khổ, ác liệt, ngày đêm hành quân từ đất Tổ Hùng Vương qua Thanh - Nghệ - Tĩnh, vào Kon Tum, Quảng Đà, sang nước bạn Lào, tham gia chiến đấu trên nhiều chiến trường. Trên mọi nẻo đường hành quân, từ Bắc vào Nam, đến khi làm nhiệm vụ quốc tế vẻ vang, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn luôn phát huy tinh thần tự lực, tự cường; mở đường mà đi, tìm địch mà đánh; đã đánh là thắng; vừa chiến đấu vừa xây dựng; càng đánh càng trưởng thành, lớn mạnh.
Ngay lần đầu xuất quân, Trung đoàn đã tham gia chiến đấu ở Đường 9 - Quảng Trị và mặt trận Quảng Đà. Hai Tiểu đoàn Hỏa tiễn A12 của Trung đoàn, phối hợp cùng Trung đoàn Pháo binh 84 (Quân khu 2) và Trung đoàn Pháo binh 575 (Quân khu 5), đã dội bão lửa xuống đầu quân thù tại điểm cao 241 và sân bay Đà Nẵng. Kết quả: tiêu diệt, làm bị thương hơn 1.000 tên Mỹ - ngụy, phá hủy hàng chục máy bay, khẩu pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Chiến công của Tiểu đoàn Pháo binh 1 và Tiểu đoàn Pháo binh 3 đã cổ vũ, động viên toàn Trung đoàn tiếp tục lập công.
Tiếp nối chiến thắng trận đầu, Trung đoàn liên tục hoàn thành xuất sắc các trận đánh độc lập và hiệp đồng với đơn vị bạn, tiêu biểu như: trận tiến công đồn Phổ Lại; trận pháo kích Từ Hạ, ấp 5 Mỹ Thủy; trận tập kích sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 1 Mỹ - ngụy ở Mang Cá (19/3/1975) làm cho tướng tá địch hoang mang, hoảng loạn.
Đặc biệt, trong trận pháo kích cấp tập vào cảng Tân Mỹ, cửa biển Thuận An (22-25/3/1975), Trung đoàn đã bắn chìm 2 tàu chiến, thiêu cháy 7 xe pháo, làm tê liệt hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, xe tải, pháo tự hành và nhiều phương tiện chiến tranh khác, góp phần vào thắng lợi chung giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế. Từ đây, địa danh Thuận An đi vào lịch sử và trở thành niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn. Cũng từ đây, hai tiếng “Thuận An” đã trở thành tên gọi truyền thống Đoàn Pháo binh Thuận An.
Trong 10 năm đầu thành lập, dưới sự lãnh đạo, rèn luyện của Đảng, Quân đội, Quân khu Trị - Thiên và Binh chủng Pháo binh; được cấp ủy, chính quyền và Nhân dân địa phương đùm bọc, giúp đỡ, Trung đoàn 16 đã 4 lần xuất quân (3 lần chi viện miền Nam, 1 lần sang Lào làm nhiệm vụ quốc tế). Trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong 5 chiến dịch lớn, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong kháng chiến chống Mỹ và khi làm nhiệm vụ quốc tế, Trung đoàn đã xây dựng 21 tiểu đoàn, 17 đại đội, 2 trạm xe pháo; bổ sung hơn 1 vạn cán bộ, chiến sĩ và hàng nghìn xe pháo cho các mặt trận; trực tiếp đào tạo 865 cán bộ từ khẩu đội trưởng đến đại đội trưởng; bồi dưỡng cho hơn 10.000 nhân viên chuyên môn kỹ thuật; huấn luyện hơn 10.000 tân binh làm chủ khí tài hiện đại.
Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Trung đoàn tiếp tục phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, vừa huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất, phối hợp cùng chính quyền và Nhân dân các tỉnh Trị - Thiên - Huế, Nghệ An, Hà Tĩnh khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Trung đoàn 16 được Bộ Quốc phòng quyết định nâng cấp thành Lữ đoàn Pháo binh 16 (15/7/1991). Phát huy truyền thống “Chấp hành mệnh lệnh nghiêm, luyện hay, bắn giỏi, dũng cảm kiên cường, hiệp đồng chặt chẽ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” của Lữ đoàn, cùng tinh thần “Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng” của Binh chủng Pháo binh Anh hùng, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn luôn vững vàng, xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Với những thành tích đạt được, Lữ đoàn Pháo binh 16 đã được tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Quân công hạng Ba, hạng Nhì, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba, cùng nhiều phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Ban Dân vận Trung ương, Tổng cục Chính trị, tỉnh Nghệ An, Quân khu 4... Đặc biệt, ngày 23/5/2005, Lữ đoàn vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân - phần thưởng cao quý, xứng đáng với chiến công và thành tích của đơn vị.
NHÃ UYÊN
Bình luận, góp ý (0)
Bạn cần đăng nhập để bình luận