A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Lực lượng vũ trang Quân khu 4 ra đời và hoạt động trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1945 - 1954)

Ra đời trong cao trào cách mạng, lớn lên trong khói lửa chiến tranh, lực lượng vũ trang Quân khu 4 trở thành biểu tượng của ý chí kiên cường, góp phần làm nên thắng lợi của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Lực lượng vũ trang Quân khu 4 ra đời

Quân khu 4 thuộc Bắc Trung bộ, gần cửa ngõ phía Nam Thủ đô Hà Nội, nằm ở phía Tây Thái Bình Dương, cùng chung dãy Trường Sơn hùng vĩ với nước bạn Lào anh em. Mảnh đất này với điều kiện địa lý, từ thuở dựng nước đã là địa bàn chiến lược quan trọng, nơi phát tích của nhiều cuộc khởi nghĩa. Lịch sử còn ghi mãi chiến công oanh liệt của Triệu Trinh Nương chống quân Ngô thế kỷ thứ 3, khởi nghĩa Mai Thúc Loan đánh quân Đường (năm 722); Lê Lợi cùng các nhân tài về đất “Lam Sơn tụ nghĩa” đánh giặc Minh…

Bộ đội địa phương Thanh Hóa hành quân chi viện cho Mặt trận Điện Biên Phủ, tháng 1/1954.  Ảnh tư liệu

 

Giữa thế kỷ 19, thực dân Pháp đem quân xâm lược nước ta. Với ý chí, khát vọng tự do và truyền thống bất khuất, các cuộc khởi nghĩa và nhiều phong trào yêu nước của các nhân sỹ và Nhân dân Khu 4 liên tiếp nổ ra. Tuy các cuộc khởi nghĩa lần lượt bị thất bại do thiếu một đường lối đúng đắn nhưng đã chứng minh tinh thần độc lập dân tộc và ý chí chống ngoại xâm của Nhân dân ta.

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường bạo lực cách mạng và tất yếu phải tổ chức ra lực lượng vũ trang cách mạng. D­ưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Xứ uỷ Trung Kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng đã diễn ra mạnh mẽ khắp các tỉnh Khu 4.

  Cùng với sự phát triển của phong trào đấu tranh sục sôi của Nhân dân, các tổ chức vũ trang lần lượt ra đời, đầu tiên là các đội Tự vệ đỏ trong cao trào Xô viết Nghệ tĩnh (1930-1931), với nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng công nông (ở Nghệ An và Hà Tĩnh lúc này có 463 đội với tổng số 15.428 hội viên). Lực lượng "Tự vệ đỏ" là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên, trở thành tiền thân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sau này.

Dân công hoả tuyến Liên khu 4 vận chuyển lương thực  phục vụ chiến dịch Tây Bắc 1952.

 

Cùng với sự phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đội Tự vệ đỏ cũng được tổ chức và hoạt động phù hợp với tình hình của từng giai đoạn. Từ sau các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, cùng với các chiến khu của Trung ­ương (trong đó có chiến khu Hoà - Ninh - Thanh, tức: Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa), ở Khu 4 thành lập 8 chiến khu (Triệu Phong, Vĩnh Linh/Quảng Trị; Trung Thuận/Quảng Bình; Hương Sơn, Cẩm Xuyên/Hà Tĩnh; Thanh Thủy, Anh Sơn/Nghệ An; Ngọc Trạo/Thanh Hóa).

Tháng 8 năm 1945 thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã đến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân 6 tỉnh nhất tề vùng dậy “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Ở Thanh Hoá và Quảng Bình, lực lượng Tự vệ đỏ đồng loạt bao vây các trại lính và công sở, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy cư­ớp chính quyền. Ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên trước sức mạnh áp đảo của quần chúng, thực dân phong kiến phải đầu hàng. Chỉ trong 8 ngày từ 16 - 23/8/1945 khởi nghĩa đã thành công ở các địa phương Khu 4.

Trước yêu cầu đòi hỏi của chiến tranh chống xâm lược ngày càng lớn, do đó phải phát triển lực lượng vũ trang qui mô lớn. Đi đôi với tổ chức xây dựng các đội tự vệ chiến đấu là việc khẩn trương xây dựng giải phóng quân. Sau cách mạng Tháng Tám, các tỉnh đã tổ chức ra đội quân chủ lực với tên gọi “Chi đội giải phóng quân”: Thanh Hoá có chi đội Đinh Công Tráng (sau này là Trung đoàn 77), Nghệ An có chi đội Đội Cung (sau này là Trung đoàn 57), Hà Tĩnh có chi đội Phan Đình Phùng (sau này là Trung đoàn l03), Quảng Bình có chi đội Lê Trực (sau này là Trung đoàn 18), Quảng Trị có chi đội Nguyễn Thiện Thuật (sau này là Trung đoàn 95), Thừa Thiên-Huế có chi đội Trần Cao Vân (sau này là Trung đoàn 101). Đây là các trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân khu để xây dựng Đại đoàn 304, 325 và Trung đoàn 120 quân tình nguyện Việt - Lào sau này.

Đội dân quân hỏa tuyến Quỳnh Lưu tải đạn.

 

  Trước sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng, do yêu cầu bố trí thế trận chung của cả nước, Ngày 15/10/1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tổ chức các Chiến khu trong toàn quốc và Chiến Khu Bốn được thành lập, đồng chí Lê Thiết Hùng làm Khu trưởng, đồng chí Hồ Tùng Mậu làm Chính trị ủy viên, cùng Xứ uỷ Trung Kỳ tiến hành tổ chức thành lập Chiến Khu 4. Từ đây Xứ ủy Trung kỳ có các cơ quan lãnh đạo Đảng, Mặt trận Việt Minh, chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang cách mạng, trực tiếp lãnh đạo các tỉnh, đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Cách mạng tháng Tám thành công là thành quả của một quá trình vận động cách mạng, chiến đấu hy sinh đầy gian nan thử thách của bao chiến sĩ cách mạng và đảng viên cộng sản kiên cường, bất khuất, sự hy sinh vô bờ bến của Nhân dân ta trong suốt thời kỳ cách mạng từ khi có Đảng lãnh đạo, đó còn là kết tinh truyền thống yêu nước nồng nàn và tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Từ nền tảng của cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân các tỉnh Khu 4 cùng cả nước tiếp tục vươn lên, viết tiếp trang sử vẻ vang trong thời kỳ mới của cách mạng.

Cùng toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

Ngày 23/9/1945 thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam Bộ. Trung ­ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “ủng hộ Nam Bộ kháng chiến”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ­ương Đảng và Hồ Chủ tịch, các tỉnh Khu 4 lập “Phòng Nam Bộ” ghi tên những người tình nguyện vào Nam chiến đấu và tổ chức các đơn vị Nam tiến, phong trào tình nguyện vào Nam giết giặc đã được mọi tầng lớp Nhân dân các tỉnh Khu 4 hưởng ứng nhiệt liệt. Bộ chỉ huy Chiến khu đã cử 5 đại đội giải phóng quân lên đường Nam liến (trên chuyến tàu chở đoàn quân Nam tiến từ Hà Nội vào đến ga Thanh Hoá tăng cường 1 đại đội, ga Vinh 2 đại đội, Quảng Trị 1 đại đội và ga Huế 1 đại đội). Các đơn vị giải phóng quân Chiến Khu 4 đã lập công xuất sắc ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên.

Nhân dân Thanh Hoa tiết kiệm lương thực cho Chiến dịch Điện Biên phủ tháng 4/1954.

 

Thực hiện chỉ thị toàn quốc kháng chiến của Trung ­ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đêm 19/12/1946 quân, dân Khu 4 nhất loạt tiến công quân Pháp. Trong những ngày đầu kháng chiến, các lực lượng vũ trang Khu 4 tuy còn nhiều khó khăn như­ng đã giành được những thắng lợi quan trọng. Nghệ An mở đầu cuộc kháng chiến lúc 23 giờ, bắt sống 34 quân Pháp tại Vinh, thu vũ khí trang bị. Thừa Thiên nổ súng tiến công bao vây 750 lính Pháp tại Huế.

Ngày 25/1/1948 Chính phủ ra Sắc lệnh số 120/SL tổ chức các Liên khu (Khu 4 đổi tên là Liên khu 4), đồng thời thành lập Phân khu Trị Thiên trực thuộc Liên khu 4. Ngay từ năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Liên khu 4 đã sớm hình thành ba vùng rõ rệt:

Thanh-Nghệ-Tĩnh là vùng tự do, không ngừng được xây dựng củng cố, phát triển lực lượng và thế trận, ngăn chặn âm mưu địch mở rộng chiến tranh.

Bình-Trị-Thiên là tiền tuyến, quân và dân địa phương đã đương đầu một cách anh dũng với âm mưu bình định, khủng bố dã man, tàn bạo của địch.

Miền tây Liên khu được củng cố. Các lực lượng vũ trang sát cánh với bộ đội giải phóng Lào chiến đấu bảo vệ biên giới và làm nhiệm vụ quốc tế.

Các đơn vị bộ binh cơ giới đang khẩn trương đưa bộ đội từ Thanh Nghệ Tĩnh vào Điện Biên Phủ.

 

Tháng 10/1949 Quân uỷ Trung ­ương, Bộ Tổng Tư­ lệnh quyết định thành lập Mặt trận Bình Trị Thiên - Trung Lào có nhiệm vụ tác chiến tập trung ở hướng chiến lược Đường số 9 - miền Trung Đông D­ương để phối hợp với chiến trường chính Bắc bộ. Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, lực lượng vũ trang được củng cố và trưởng thành, từ nền tảng là lực lượng dân quân du kích vững mạnh phát triển thành lực lượng vũ trang 3 thứ quân, từ phương thức lấy “du kích chiến” là cơ bản đến đẩy mạnh “vận động chiến”, thúc đẩy đấu tranh chính trị của Nhân dân lên đỉnh cao mới. Phối hợp với chiến trường Bắc Bộ, mặt trận Bình-Trị-Thiên đã mở 2 chiến dịch: Chiến dịch Lê Lai từ 22/12/1949 đến 27/1/1950 và chiến dịch Phan Đình Phùng từ 15/6 đến 24/10/1950. Cả 2 Chiến dịch đã phá thế phòng ngự liên hoàn, kiềm chế giam chân chủ lực địch và tiêu hao sinh lực địch, chặn đứng âm mưu tiến công của địch ra vùng tự do.

Những năm 1951 - 1953, hậu phương Thanh-Nghệ-Tĩnh ngày càng vững mạnh, hoàn thành các nhiệm vụ giảm tô, chi viện sức người, sức của cho tuyến đầu Bình-Trị-Thiên và các chiến dịch lớn của cả nước, đồng thời nghiêm trị bọn phản động, tiêu diệt nhiều toán gián điệp, thổ phỉ ở miền núi phía Tây Liên khu. Trên chiến trường Bình-Trị-Thiên, lực lượng vũ trang cùng với các tầng lớp Nhân dân đẩy mạnh tác chiến đánh bại các cuộc hành quân càn quét, bình định của địch và đập tan mọi âm mưu, tập kích hòng làm suy yếu hậu phương ta; cùng với bạn Lào giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Thượng Lào tạo ra cục diện mới cho thắng lợi quyết định.

Trong chiến cuộc Đông xuân 1953 - 1954, Liên Khu 4 được giao nhiệm vụ:

- Tham gia cùng Bạn mở chiến dịch Trung Lào.

- Tác chiến bảo vệ hậu phương, xây dựng lực lượng và cung cấp mọi nhu cầu cho chiến dịch Trung Lào và chiến dịch Điện Biên phủ.

- Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở chiến trường Bình-Trị-Thiên, tiêu hao, tiêu diệt và kìm chân địch, phối hợp với chiến trường chính.

Hình ảnh Anh hùng Phan Đình Giót (quê hương Hà Tĩnh) lấy thân mình lấp lỗ châu mai, mở đường cho đơn vị tiến lên tiêu diệt cứ điểm Him Lam, giành toàn thắng cho trận đánh mở màn chiến dịch lịch sử Điện Bieenn phủ.

 

Trên chiến trường Trung - Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, quân và dân Liên Khu 4 đã cùng Bạn liên tục tấn công, giành thắng lợi giòn dã ở Thà Khét, Khăm Muộn, Xa vẳn Nạ khét, Lào ngam, Tha teng…giải phóng một vùng rộng lớn 40 ngàn km2. Trên hướng Bình-Trị-Thiên phong trào đấu tranh của quân và dân ta đã có bước tiến mới: đấu tranh vũ trang, kết hợp với đấu tranh chính trị và vận động binh lính nguỵ ra hàng, liên tục chiến đấu kìm chân địch, đánh bại mọi cuộc hành quân càn quét của địch, hoàn thành tốt nhiệm vụ của một chiến trường phối hợp.

Đảng bộ và Nhân dân 3 tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh đã dốc hết nhân tài, vật lực cho các hướng. Trong đó Thanh Hoá và Bắc Nghệ An phục vụ cho chiến dịch Điện Biên phủ, Nam Nghệ An và Hà Tĩnh phục vụ chiến dịch Trung, Hạ Lào. Những đóng góp của quân và dân Liên Khu 4 đã góp phần cùng với cả nước đập tan cứ điểm Điện Biên phủ (7/5/1954), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

* Thành tích trong cuộc kháng chiến chống Pháp của Quân khu 4: Đánh 7.400 trận, tiêu diệt 69.800 tên địch, bắt sống 3.400 tên, ra hàng 4.500 tên. Thu 8.130 súng các loại; phá huỷ 366 xe cơ giới, 200 khẩu pháo và cối, 117 toa xe lửa. bắn rơi 13 máy bay. Chi viện cho tiền tuyến: 134.700 thanh niên nhập ngũ, bổ sung đi các chiến trường gần 100.000. Hơn 2 triệu lượt người đi dân công hoả tuyến, 120.000 lượt người đi mở đư­ờng chiến lược. Cung cấp cho chiến trường 870.000 tấn lương thực, thực phẩm, 900 tấn vũ khí do địa phương liên khu sản xuất. Làm 5300 km đường chiến lược, 145 cầu, 30 km đường xe goòng. Tính đến ngày 11/11/1954 Liên Khu 4 đã bảo đảm ăn nghỉ, sinh hoạt cho hơn 3.000 bộ đội giải phóng quân Lào và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào và đón 26.432 cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết.

          Vũ Hoàng (lược ghi)


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Bình luận, góp ý (0)

Chưa có phản hồi

Bạn cần đăng nhập để bình luận

Tin liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Xem nhiều
Liên kết Website
Tỷ giá

Quân khu - Quân chủng
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội